Thứ Tư, 30 tháng 6, 2010

CHÚC MỪNG

Cha Chánh Xứ
Hội Đồng Mục Vụ
Các Đoàn Thể, Các Nhóm Tông Đồ
và Cộng Đoàn Dân Chúa
GIÁO XỨ THUẬN PHÁT

HÂN HOAN CHÚC MỪNG
11 NĂM LINH MỤC
(30.6.1999 - 30.6.2010)

Cha GIOAN LÊ QUANG VIỆT
Tổng Thư Ký UBMV Giới Trẻ HĐGMVN
Trưởng Ban Mục Vụ Giới Trẻ TGP.Saigon
Chánh Xứ Giáo Xứ Mactinho-Quận 1-TP.HCM



Hân hoan cầu chúc đời Linh Mục của Cha được tràn đầy ơn Chúa.
Giáo xứ Thuận Phát
30.6.2010

LẼ SỐNG 30.6

30 Tháng Sáu
Chiếc Cầu Của Gặp Gỡ

Vào khoảng năm 1850, họa sĩ tài ba của Hoa Kỳ là James McNeil Whisler đang còn là một thanh niên đầy nhiệt huyết. Mặc dù có tâm hồn nghệ sĩ, Whisler cũng đăng ký vào trường đại học quân sự West Point.

Người ta kể lại rằng khi giáo sư ra đề tài vẽ về một chiếc cầu, dĩ nhiên, các sinh viên phải hiểu đây là một chiếc cầu cần được thiết kế trong mục tiêu quân sự. Thế nhưng, tâm hồn nghệ sĩ của Whisler đã không đếm xỉa gì đến khía cạnh quân sự. Anh vẽ một chiếc cầu thơ mộng bắc qua một mỏm núi thơ mộng. Dọc theo hai bên bờ sông là một tấm thảm cỏ xanh tươi. Nhưng thơ mộng hơn nữa là có hai đứa bé đứng câu cá trên chiếc cầu ấy.

Ông giáo sư cầu cống không ưng ý chút nào, nên đã ra lệnh cho anh phải bôi đi hình ảnh của hai đứa bé. Viên sĩ quan bèn di chuyển hai cậu bé từ chiếc cầu xuống thảm cỏ bên bờ sông. Lần này, ông giáo sư lại càng giận giữ hơn. Ông quát tháo ầm ĩ: "Tôi đã bảo anh phải cất chúng ra khỏi bức tranh".

Nhưng con người có tâm hồn nghệ sĩ xem chừng như không thể vẽ cảnh thiên nhiên mà thiếu bóng dáng của con người. Không được sáng tác theo ý mình muốn, Whisler bèn vẽ hai cái mộ trên thảm cỏ dọc theo dòng sông và muốn ông giáo sư hiểu ngầm rằng anh đã chôn hai cậu bé trong hai cái mộ ấy.

Chiếc cầu được bắc qua dòng sông là để nối liền hai bờ sông và chiếc cầu nối liền hai bờ sông là để cho con người ở hai bên bờ sông được liên lạc với nhau. Thiếu sự đi lại của con người thì chiếc cầu trở thành vô nghĩa.

Chúa Giêsu là chiếc cầu nối liền Trời cao và Ðất thấp. Nơi Ngài, con người và Thiên Chúa gặp gỡ nhau. Chỉ trên chiếc cầu của Ðức Kitô con người mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa và gặp gỡ nhau.

Ngài sinh ra trong một gia đình, Ngài lớn lên trong một gia đình. Ngài đến để quy tụ tất cả nhân loại thành một gia đình. Con đường cứu rỗi của Ngài là con đường mở rộng cho mọi người cùng nắm tay đi với nhau. Chiếc cầu nối liền Thiên Chúa và con người là chiếc cầu của gặp gỡ, của cảm thông, của yêu thương. Chúng ta chỉ có thể đi về cõi phúc trên chiếc cầu của gặp gỡ, của yêu thương ấy.


Trích sách Lẽ Sống

THÁNH LỄ TẠ ƠN MỪNG BỔN MẠNG GIÁO KHU 1 - PHÊRÔ










* Thánh Lễ sáng (5 giờ) ngày 29-6-2010 giáo xứ cử hành Thánh Lễ Tạ Ơn mừng Bổn Mạng Giáo Khu 1 (Phêrô). Cha Sở đã dâng lời cầu nguyện cho các gia đình trong giáo khu, các ông, các anh em và các cháu thiếu nhi đã chọn Thánh Phêrô làm Quan Thầy và không quên cầu nguyện cho Đức Cha phụ tá Phêrô. Với tâm tình Tạ Ơn Thiên Chúa Tình Yêu và lòng Kính Mến Thánh Quan Thầy, giáo khu đã tổ chức nghi thức dâng lễ vật để tỏ lòng tri ân những lời cầu bầu của Thánh Quan Thầy và những Ơn Lành mà Thiên Chúa đã thương ban. Sau Thánh Lễ các gia đình trong giáo khu đã chụp hình lưu niệm với Cha Sở trước Tòa Thánh Phêrô. Tại phòng khách giáo xứ Ông Trùm giáo khu đã thay mặt cho các gia đình trong giáo khu cám ơn Cha Sở đã dâng Thánh Lễ cầu nguyện cho các gia đình trong giáo khu cũng như các Vị trong giáo khu đã qua đời.

* 19 gời 30 cùng ngày, theo thông lệ, Cha Sở, quý vị trong HĐMVGX, rất đông quý ông bà, anh chị em trong giáo xứ đã tụ họp tại nhà ông Trùm giáo khu 1 cùng các gia đình trong giáo khu để dâng giờ kinh Kính Thánh Phêrô quan thầy. Sau giờ kinh ông Trùm đã thay mặt các gia đình trong giáo khu cám ơn Cha Sở, HĐMVGX và cộng đoàn đã vì tình thương mến đã bớt thời gian nghỉ ngơi đến tham dự giờ kinh và cầu nguyện cho các gia đình trong giáo khu. Ông Trùm đã mời Cha và cộng đoàn dùng nước, mọi người trò chuyện cùng nhau, không khí thật vui vẻ.

Mời xem thêm hình Thánh Lễ TẠI ĐÂY.
Mời xem thêm hình giờ Kinh tối TẠI ĐÂY.


Hữu Toàn.

THÁNH LỄ TẠ ƠN MỪNG BỔN MẠNG CHA SỞ






* Chiều Thứ Hai 28-6-2010 giáo xứ đã tổ chức Thánh Lễ Tạ Ơn, Mừng Bổn Mạng Cha Sở (Phêrô). Để bước vào Thánh Lễ, lễ sinh và Cha Sở đã thắp hương trước Tòa Thánh Phêrô. Đầu Lễ Cha Sở mời gọi cộng đoàn hiệp ý cùng cầu nguyện cho Đức Cha phụ tá Phêrô Nguyễn Văn Khảm. Cộng đoàn tham dự Thánh Lễ rất sốt sắng, ca đoàn Thiếu Nhi khá đông, hát lễ rất nhiệt tình. Cuối lễ Cha Sở gởi lời cám ơn đến cộng đoàn đã cầu nguyện, và chúc mừng Bổn Mạng Ngài.
Sau Thánh Lễ Cha Sở đã mời các em Thiếu Nhi và cộng đoàn cùng uống sữa nhân ngày mừng Bổn Mạng.

Mời xem thêm hình TẠI ĐÂY.

Hữu Toàn.

Thứ Ba, 29 tháng 6, 2010

MỪNG BỔN MẠNG GIÁO KHU 1


Cha Chánh Xứ
Hội Đồng Mục Vụ
và Cộng Đoàn Dân Chúa
Giáo Xứ Thuận Phát
HÂN HOAN CHÚC MỪNG
BỔN MẠNG GIÁO KHU 1
GIÁO XỨ THUẬN PHÁT

LẼ SỐNG 29.6

29 Tháng Sáu
Ngài Là Cha Tôi

Truyện cổ Roma thường ghi lại các cuộc chiến thắng khải hoàn của các vị Hoàng đế. Sau một lần thắng trận, các vị hoàng đế thường hướng dẫn các đoàn quân tiến qua các ngã phố cho dân chúng tung hô.

Lần kia, các đường phố đều đông nghẹt. Người ta phải dựng một khán đài đặc biệt để hoàng gia có thể theo dõi cuộc diễu hành. Khi hoàng đế và quân đội tiến đến gần khán đài nơi hoàng hậu và các công chúa, hoàng tử đang chờ đợi, người ta kinh ngạc vô cùng vì vị hoàng tử nhỏ nhất đã rời khỏi khán đài và chạy vụt đến chiến xa của hoàng đế.

Những người vệ binh có trách nhiệm giữ an ninh hai bên đường đã chận hoàng tử lại. Họ giải thích cho cậu biết rằng: xa giá đang tiến lại gần chính là xa giá của hoàng đế. Không ai được phép đến gần... Vị hoàng tử nhỏ điềm nhiên trả lời: "Ngài là hoàng đế của các ông, còn đối với tôi thì ngài là cha tôi".

"Ngài là cha tôi": đó phải là danh xưng mà chúng ta có quyền sử dụng để gọi Thiên Chúa. Ðó cũng là danh xưng nói lên mối liên hệ mật thiết mà Thiên Chúa luôn muốn thắt chặt với từng người trong chúng ta.

"Ngài là cha tôi": danh xưng ấy cũng cho phép chúng ta khẳng định về giá trị của con người chúng ta. Dù chúng ta có bất tài, yếu hèn, tội lỗi đến đâu, chúng ta vẫn có thể gọi Chúa là Cha.

"Ngài là cha tôi": danh xưng ấy không cho phép chúng ta thất vọng về chính mình. "Hãy trở nên chính mình". Ðó là mệnh lệnh mà Thiên Chúa dành cho từng người chúng ta. Thiên Chúa yêu thương từng người trong chúng ta và yêu thương chúng ta vì những cá biệt của từng người.

Hôm nay chúng ta mừng trọng thể hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô. Hai trụ cột của Giáo hội, nhưng đồng thời cũng là hai tính khí khác nhau, có khi lại xung khắc nhau.

Một người xuất thân từ một dân chài, nóng nảy, cục mịch. Một người xuất thân là một thư sinh học rộng, hiểu sâu.

Hai trình độ khác nhau, hai tính tình khác nhau, nhưng mẫu số chung nối kết hai tâm hồn: đó là cuộc gặp gỡ với Ðức Kitô. Cuộc gặp gỡ ấy cũng diễn ra trong hai trường hợp khác nhau. Một người chỉ thực sự khám phá ra con người của Ðức Kitô sau ba lần phản bội. Một người chỉ nhận biết Ngài sau những lần truy lùng gắt gao các môn đệ của Ngài... Một người đã nhận ra tình yêu của Ngài qua những giọt nước mắt của sám hối, một người đã gặp gỡ Ngài sau một lần ngã ngựa đớn đau.

Hai tính khí khác nhau, hai trực giác khác nhau, hai đường hướng hoạt động tông đồ khác nhau, nhưng đã gặp gỡ nhau trong tình yêu Chúa và bổ túc cho nhau để xây dựng Giáo hội của Chúa.

Hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô vừa là hình ảnh đa diện phong phú của Giáo Hội, vừa là biểu trưng của Tình Yêu của Chúa đối với chúng ta. Thiên Chúa yêu thương chúng ta trong sự yếu hèn, thiếu sót của chúng ta. Tình yêu đó không đòi hỏi chúng ta phải chối bỏ con người tự nhiên của chúng ta. Trái lại Chúa muốn sử dụng tất cả những khuyết điểm, những giới hạn của con người chúng ta để làm nổi bật sức mạnh và sự khôn ngoan của Ngài.

Trích sách Lẽ Sống

Thứ Hai, 28 tháng 6, 2010

MỪNG BỔN MẠNG 29.6


Cha Chánh Xứ và Hội Đồng Mục Vụ
Giáo Xứ Thuận Phát

HÂN HOAN CHÚC MỪNG
BỔN MẠNG

Ô.Phaolô Lưu Quang Sự, Chủ Tịch
Ô.Phêrô Phạm Văn Cư, Uv Trật Tự, Trưởng Giáo Khu 2

CHÚC MỪNG


GIÁO XỨ THUẬN PHÁT

Hân Hoan Chúc Mừng Bổn Mạng

Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm

Giám Mục Phụ Tá Tổng Giáo Phận Saigon


Cha Phêrô Nguyễn Văn Hiền

Phó Giám đốc Học Viện Mục Vụ

Tổng Giáo Phận Saigon

và các Cha
Phêrô Nguyễn Văn Võ
Phaolô Lê Văn Chính
Phêrô Kiều Công Tùng
Giáo Sư Đại Chủng Viện Thánh Giuse Saigon

Nguyện xin Chúa qua lời chuyển cầu của Thánh Bổn Mạng ban cho Đức Cha và Quý Cha ngàn muôn Thánh Ân.
Giáo Xứ Thuận Phát
28.6.2010

Chủ Nhật, 27 tháng 6, 2010

MỪNG BỔN MẠNG CHA CHÁNH XỨ PHÊRÔ.





*Sau thánh lễ chiều Chúa Nhật 27-6-2010 HĐMVGX và nhiều đoàn thể trong giáo xứ đã đến chúc mừng Bổn Mạng Cha Chánh Xứ Phêrô Phạm Văn Long. Ông Chủ Tịch HĐMVGX đại diện chúc Cha được nhiều sức khỏe và nhờ lời cầu bàu của Thánh Phêrô nguyện xin Thiên Chúa Ban Đổ Tràn Đầy Hồng Ân để Cha dẩn dắt đoàn dân Chúa và luôn vui tươi trong cuộc sống. Cha cũng chúc mọi người trong HĐMVGX được mọi sự bằng an và đoàn kết gắn bó để cùng nhau phục vụ Giáo Xứ ngày càng tốt hơn. Ông Chủ Tịch đã trao quà mừng Bổn Mạng Cha Chánh Xứ.

Hữu Toàn.

THÔNG BÁO CỦA TOÀ THÁNH VATICAN

Vatican: Thông cáo của Tòa Thánh về khóa họp thứ II của Nhóm Làm việc chung

VietCatholic News (26 Jun 2010 08:04)

Thông cáo của Tòa Thánh về khóa họp thứ II của Nhóm Làm việc chung

VATICAN - Hôm 26-6-2010, Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh đã công bố thông cáo về khóa họp thứ hai của Nhóm làm việc chung giữa Tòa Thánh và Việt Nam. Nguyên văn như sau:

”Như đã thỏa thuận trong khóa họp thứ I của Nhóm Làm việc chung giữa Việt Nam và Tòa Thánh, nhóm tại Hà Nội hồi tháng 2 năm 2009, khóa họp thứ II của Nhóm Làm Việc chung giữa Việt Nam và Tòa Thánh đã diễn ra tại Vatican từ ngày 23 đến 24-6 năm 2010. Khóa họp được 2 vị đồng chủ tọa là Đức Ông Ettore Balestrero, thứ trưởng ngoại giao Tóa Thánh, trưởng đoàn Tòa Thánh, và Ông Nguyễn Quốc Cường, thứ trưởng ngoại giao, trưởng đoàn Việt Nam.

Sau khi duyệt qua những tiến bộ đã đạt được từ khóa họp thứ I của Nhóm làm việc chung, hai phái đoàn đã đề cập đến những vấn đề quốc tế và những vấn đề liên quan đến quan hệ song phương, và Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam. Phái đoàn Việt Nam nhắc lại đường hướng trước sau như một của chính sách Việt Nam tôn trọng tự do tôn giáo và tín ngưỡng cũng như các qui định pháp lý bảo đảm việc thực thi tự do đó. Phái đoàn Tòa Thánh đã ghi nhận giải thích đó và yêu cầu đảm bảo thêm những điều kiện để Giáo Hội tham gia hữu hiệu hơn vào sự phát triển đất nước, nhất là trong lãnh vực tinh thần, giáo dục, y tế, xã hội và từ thiện. Ngoài ra phái đoàn Tòa Thánh nhắc lại rằng, qua các giáo huấn, Giáo Hội mời gọi các tín hữu trở thành những công dân tốt và dấn thân cho công ích của nhân dân.

”Hai phái đoàn đã ghi nhận những phát triển khả quan trong các lãnh vực của đời sống Công Giáo tại Việt Nam, đặc biệt về Năm Thánh. Ngoài ra, cả hai nhắc đến bài diễn văn của Đức Thánh Cha Biển Đức 16 trong dịp các Giám Mục Việt Nam về Roma viếng mộ các Thánh Tông Đồ năm ngoái và Sứ điệp của Đức Thánh Cha gửi Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam nhân dịp Năm Thánh, và cả hai Phái đoàn đồng ý rằng các giáo huấn này của Đức Thánh Cha sẽ được dùng làm hướng đi cho Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam trong những năm tới đây.

”Về quan hệ song phương, hai Phái đoàn đánh giá cao những phát triển tích cực diễn ra từ sau Khóa họp thứ I của Nhóm làm việc chung, đặc biệt là cuộc gặp gỡ giữa Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16 và Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Minh Triết hồi tháng 12 năm 2009. Hai Phái đoàn đã trao đổi sâu rộng về quan hệ ngoại giao song phương. Để đào sâu quan hệ giữa Tòa Thánh và Việt Nam, cũng như những quan hệ giữa Tòa Thánh và Giáo Hội Công Giáo địa phương, như một bước đầu, cả hai bên đã thỏa thuận về việc Đức Giáo Hoàng bổ nhiệm một vị Đại Diện không thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam.

Hai Phái đoàn quyết định nhóm khóa họp thứ III của Nhóm Làm việc chung tại Việt Nam; ngày nhóm họp sẽ được thỏa thuận qua đường ngoại giao.

Nhân khóa họp, Phái đoàn Việt Nam đã viếng thăm Đức TGM Mamberti, Ngoại trưởng Tòa Thánh, ĐHY Tổng trưởng Bộ truyền giáo, và Tòa Giám Quản Roma. Đoàn cũng viếng thăm Bệnh Viện Nhi Đồng ”Chúa Hài Đồng Giêsu” của Tòa thánh ở Roma (SD 26-6-2010)


LM Trần Đức Anh OP dịch

LẼ SỐNG 28.6

28 Tháng Sáu
Ngợi Khen Con Người

Trong tập thơ có tựa đề "Nhật ký", nữ thi sĩ công giáo Pháp là Marie Noel đã tưởng tượng ra một mẩu chuyện như sau: Hôm đó là ngày cuối năm. Từ trên Thiên Quốc nhìn xuống dương trần, Chúa thấy dân chúng đổ xô về một ngôi nhà thờ đổ nát, không có chuông, cũng chẳng có tháp chuông. Vị linh mục già đành phải khua mõ vào bất cứ đồ vật nào có thể gây ra tiếng vang để giục giã dân chúng đến giáo đường đọc Kinh "Te Deum" ngợi khen Chúa nhân ngày cuối năm.

Trời mưa lạnh như cắt. Vậy mà, từ khắp nơi trong xóm giáo, người ta vẫn đổ xô về ngôi giáo đường. Chúa theo dõi từng cử động một của một người đàn bà đơn độc mà ngôi nhà vừa bị thiêu rụi trong một trận hỏa hoạn. Chúa lại nhìn thấy một thiếu phụ mà cách đó không lâu bọn Ðức Quốc Xã đã tước đoạt mọi tài sản. Một người đàn bà khác, mà chồng đã bị giết trước mắt, cũng lặng lẽ tiến đến nhà thờ. Có cả thiếu phụ mất con mà người ta không tìm ra tung tích. Có cả người đàn ông mà vợ và con bị chôn vùi dưới đống gạch vụn... Còn bao nhiêu người khốn khổ khác nữa. Họ không biết đi đâu, họ không có gì để ăn bởi vì quân thù đã đốt phá và cướp đi tất cả những lương thực dự trữ.
Vậy mà những người khốn khổ ấy có mặt đày đủ trong ngôi giáo đường. Có một vài tiếng khóc. Nhưng tất cả đều cất tiếng hát bài "Te Deum" ngợi khen Chúa trong ngày cuối năm vì những ơn huệ Ngài ban trong năm qua.

Nhìn thấy cảnh tượng ấy cũng như lắng nghe lời ca ngợi của những con người khốn khổ, Thiên Chúa vô cùng cảm động. Ngài nói với các Thiên Thần như sau: "Quả thực, quả thực, Ta bảo các ngươi: con người là loài thụ tạo thánh thiện. Các ngươi hãy nhìn xuống đám người đáng thương kia. Cách đây 12 tháng, họ đã phó dâng cho Ta cả năm để được hạnh phúc, an khang. Vậy mà tai ương và thảm sầu đã xảy đến với họ... Họ đã kêu cầu bình an, nhưng chiến tranh đã đè bẹp họ. Họ đã xin lương thực hằng ngày, nhưng họ chỉ toàn gặp là đói khát. Họ đã phó dâng cho ta gia đình, người thân và tổ quốc của họ, nhưng tổ quốc, gia đình và người thân của họ lại bị xâu xé trăm bề. Dĩ nhiên, Ta có những lý do riêng của Ta... Ta không thể thanh tẩy thế giới mà không thể thử thách nó như thời Noe. Nhưng đây là công việc của một Thiên Chúa, không ai có thể hiểu được việc Thiên Chúa làm. Nhưng con người lại phải gánh chịu mọi sự. Vậy mà họ vẫn tiếp tục ngợi khen và cảm tạ Ta cứ như Ta đã bảo vệ họ trong từng phút giây của cuộc sống họ... Quả thực, lòng tin của họ lớn lao... Các ngươi có nghe họ hát "Thánh, thánh" với tất cả trang trọng không? Hỡi các Thiên Thần và các Thánh, nào các ngươi hãy hát lên một bài ca để tôn vinh những ai, mặc dù gặp gian lao khốn khó, vẫn lên tiếng tôn vinh Ta".

Nói xong, Thiên Chúa cùng với các thần thánh trên trời cất lên bài ca "Ngợi khen con người".

Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài không thể không say mê con người, Ngài không thể không chung thủy với con người. Giữa muôn ngàn khó khăn của cuộc sống hiện tại và những khắc khoải lo âu cho tương lai, chúng ta hãy tiếp tục dâng trọn niềm tín thác cho Thiên Chúa.

Tin tưởng ở tình yêu Thiên Chúa, chúng ta tin tưởng ở tình người. Tình người dù có bội bạc, mỗi một con người, dù có đốn mạt, xấu xa đến đâu, cũng vẫn còn chất chứa trong đáy thẳm tâm hồn mình vẻ đẹp cao vời phản ảnh chính tình yêu của Thiên Chúa. Ðáp lại với những phản trắc lừa đảo, đáp lại với những thấp hèn đê tiện, người có niềm tin nơi Thiên Chúa và tin ở tình người hãy giữ mãi nụ cười của cảm thông, tha thứ và yêu thương.


Trích sách Lẽ Sống

AUDIO THÁNH LỄ CHÚA NHẬT XIII TN NĂM C

Audio Thánh Lễ Chúa Nhật XIII thường niên năm C
Mời VÀO ĐÂY và chọn bài nghe.
Cha Gioan B. Nguyễn Văn Đán dâng lễ.
Ca đoàn Cécilia hát lễ.

Hữu Toàn.

CHÚC MỪNG CHA CHÁNH XỨ


CỘNG ĐOÀN DÂN CHÚA
GIÁO XỨ THUẬN PHÁT
HÂN HOAN CHÚC MỪNG

18 NĂM LINH MỤC

(27.6.1992 - 27.6.2010)

BỔN MẠNG

CHA CHÁNH XỨ
PHÊRÔ PHẠM VĂN LONG


Nguyện xin Thiên Chúa qua lời chuyển cầu của Thánh Bổn Mạng ban cho Cha tràn đầy Ân Thánh để Cha vững bước trên hành trình phục vụ.

Hội Đồng Mục Vụ
Giáo Xứ Thuận Phát
27.6.2010

LẼ SỐNG 27.6

27 Tháng Sáu
Con Chim Trong Bàn Tay

Người Ba Tư có kể câu chuyện ngụ ngôn như sau:

Ngày xưa, tại quảng trường của một thành phố nọ, có một nhà hiền triết xuất hiện và tuyên bố giải đáp được tất cả mọi thắc mắc của bất cứ ai đến vấn kế.

Một hôm, giữa đám người đang say mê lắng nghe nhà hiền triết, có một mục tử từ trên núi cao đến. Nghe tiếng đồn về sự thông thái và khôn ngoan của nhà hiền triết, anh muốn chứng kiến tận mắt, nghe tận tai và nhất là để hạ nhục nhà hiền triết giữa đám đông.

Anh tiến đến gần nhà hiền triết, trong tay bóp chặt một con chim nhỏ. anh đặt câu hỏi như sau: 'Thưa ngài, trong tay tôi có cầm một con chim. Ngài là bậc thông thái biết được mọi sự. Xin ngài nói cho tôi biết con chim tôi đang cầm trong tay sống hay chết?".

Nhà hiền triết biết đây là một cái bẫy mà người mục tử tinh ranh đang giăng ra. Nếu ông bảo rằng con chim đang còn sống, thì tức khắc người mục tử sẽ bóp cho nó chết trước khi mở bàn tay ra. Còn nếu ông bảo rằng con chim đã chết thì lập tức con người khôn manh ấy sẽ mở bàn tay ra và con chim sẽ bay đi.

Sau một hồi thinh lặng, trước sự chờ đợi hồi hộp của đám đông, nhà hiền triết mới trả lời như sau: "Con chim mà ngươi đang cầm trong tay ấy sống hay chết là tùy ở ngươi. Nếu ngươi muốn cho nó sống thì nó sống, nếu ngươi muốn cho nó chết thì nó chết".

Ai trong chúng ta cũng khao khát hạnh phúc. Ai trong chúng ta cũng mong ước được cuộc sống an bình, vui tươi. Nhưng lắm khi chúng ta chạy theo chiếc bóng mờ ảo của hạnh phúc hơn là hưởng nếm chính hạnh phúc đang cầm trong tầm tay của chúng ta. Hạnh phúc đích thực chính là con chim mà mỗi người chúng ta đang có ở trong lòng tay. Con chim ấy sống hay chết là tùy ở mỗi người chúng ta. Chúng ta được hạnh phúc, chúng ta được an bình hay không là do chính chúng ta.

Hạnh phúc đích thực của chúng ta, niềm vui đích thực của chúng ta chính là Thiên Chúa. Nếu chúng ta để cho Thiên Chúa chiếm ngự, nếu chúng ta để cho Thiên Chúa lấp đầy, thì cho dẫu ngoại cảnh có làbầu trời đen tối đi nữa, chúng ta vẫn cảm thấy an bình, hạnh phúc.

Ý thức được sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn, để cho Chúa chiếm trọn tâm tư, lấy Chúa làm tất cả trong cuộc sống, chúng ta sẽ có được niềm vui đích thực.


Trích sách Lẽ Sống

LỜI CHÚA CN 13 THƯỜNG NIÊN NĂM C (Lc 9, 51-62)

Thứ Bảy, 26 tháng 6, 2010

LẼ SỐNG 26.6

26 Tháng Sáu
Bằng Lòng Về Chính Mình

Hans Christian Andersen, văn sĩ Ðan Mạch sống vào khoảng cuối thế kỷ 19, là tác giả của những câu chuyện dạy đời bất hủ. Ông có kể câu chuyện như sau:


Có một đôi vợ chồng già nọ sống bên nhau rất hạnh phúc. Thật ra người nắm giữ bí quyết hạnh phúc trong gia đình này chính là người vợ. Lúc nào bà cũng hài lòng về bất cứ hành động nào của người chồng. Một hôm, người vợ đề nghị với chồng là nên bán bớt một con bò. Thật ra tất cả tài sản của họ chỉ là đôi bò.

Người chồng tán thành ý kiến của vợ. Ngay từ sáng sớm, ông dắt bò ra chợ. Nhưng đường dài, mặt trời mỗi lúc một chói chang. Con bò già lại không thể bước nhanh. Do đó khi thấy một người nông dân khác cũng đang dắt heo ra chợ bán, người chồng mới có ý nghĩ đem đổi bò lấy con heo. May ra con heo có thể đi nhanh hơn không?

Ðổi được con heo và đi được một quãng đường, người chồng lại cảm thấy không thoải mái chút nào. Con heo cứ muốn đi theo hướng của nó. Vừa bực tức với con heo, ông lại thấy một người nhà quê khác cũng đang dắt dê ra tỉnh. Ông nghĩ rằng dê có thể là con vật ít cồng kềnh hơn con heo, cho nên ông mới nấn ná đến người chủ dê để đề nghị hoán đổi.

Ðổi được dê, người đàn ông như cảm thấy nhẹ nhõm trong người. Nhưng chỉ trong vài phút đồng hồ, ông mới khám được cái tính bất thường của loài dê. Nó chạy bên này, nhảy bên kia, nó đưa sừng húc khắp mọi nơi... Giữa lúc ông ngán ngẩm với con dê, thì bỗng đâu một người nhà quê khác tiến lại gần ông với cả một đàn ngỗng. Con ngỗng dù sao cũng ít cồng kềnh hơn con dê. Nghĩ vậy cho nên ông mang con dê đến đổi lấy một chú ngỗng trắng. Ôm lấy chú ngỗng vào lòng, người đàn ông cảm thấy thoải mái hơn bao giờ hết. Ông tin chắc là mình sẽ đến chợ sớm hơn. Nhưng chưa đến chợ, thì ông lại thấy một người buôn gà. So sánh gà với ngỗng, dĩ nhiên gà phải nhẹ hơn... Tính toán mãi, cuối cùng, ông đã đem chú ngỗng đến đổi lấy một con gà.

Mặt trời mỗi lúc một lên cao. Cơn khát như muốn đốt cháy cổ họng ông. Bụng ông lại trống rỗng. Vừa thấy một quán ăn bên vệ đường, người đàn ông không còn cầm được cơn cám dỗ. Ông đành phải đem con gà bán đi với giá một đồng bạc. Một đồng này vừa đủ cho một bữa ăn trưa cộng với một ly bia.

Những người đàn ông trong quán ăn biết chuyện mới tỏ ra ái ngại cho giây phút ông phải đối đầu với người vợ. Thế nhưng, con người luôn luôn được vợ hài lòng ấy vẫn tỏ ra bình thản. Ông tin tưởng rằng vợ ông sẽ không bao giờ trách móc ông. Một người đàn ông có máu cờ bạc, không tin ở thái độ của bà vợ ông, cho nên mới đề nghị đánh cá. Ông ta đưa ra hai mươi đồng và đi theo người đàn ông về đến nhà. Ông núp một nơi kín đáo để theo dõi phản ứng của người vợ.

Quả thực, người đàn ông bắt đầu báo cáo lại cho vợ từng chi tiết của những cuộc trao đổi của ông. Cứ mỗi lần người đàn ông kể lại một cuộc đổi chác của mình, người vợ đều tỏ ra hài lòng. Khi người đàn ông kể đến chuyện ông bán con gà được một đồng và vào quán ăn trưa, người vợ mới mỉm cười thốt lên như sau: "Tạ ơn Chúa, cũng may là mình bán được con gà. Như vậy là mình có thể ngủ yên mà không sợ tiếng gà gáy phá giấc. Ðiều quan trọng đối với tôi là biết rằng mình thỏa mãn là được".

Người chồng thắng được vụ cá cuộc. Ông được hai mươi đồng, số tiền còn lớn hơn cả giá bán con bò.

Hãy đón nhận từng giây phút hiện tại với hân hoan, cảm mến. Hãy làm công việc trong phút giây hiện tại như là công việc quan trọng nhất. Hãy đón tiếp người trước mặt như một người quan trọng nhất. Hãy chấp nhận mọi người với cảm thông, tha thứ và lạc quan. Hãy chấp nhận chính bản thân với sự bằng lòng, thoải mái: đó là tất cả bí quyết của hạnh phúc mà chúng ta cần phải nắm lấy.

Trích sách Lẽ Sống

Thứ Sáu, 25 tháng 6, 2010

THÔNG BÁO MỪNG BỔN MẠNG CHA CHÁNH XỨ


HỘI ĐỒNG MỤC VỤ
GIÁO XỨ THUẬN PHÁT
HÂN HOAN THÔNG BÁO


Chúa Nhật 27.6.2010
KỶ NIỆM 18 NĂM
NGÀY CHA CHÁNH XỨ
NHẬN LÃNH SỨ VỤ LINH MỤC
(27.6.1992 – 27.6.2010)

Thứ Hai 28.6.2010
LỄ VỌNG HAI THÁNH
TÔNG ĐỒ PHÊRÔ VÀ PHAOLÔ
(Thánh Phêrô Bổn Mạng Cha Chánh Xứ)

Cha Chánh Xứ sẽ cử hành thánh lễ
Kính Hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô,
Tạ Ơn Mừng Kỷ Niệm Ngày Chịu Chức Linh Mục
và Mừng Bổn Mạng

Vào lúc 05g30 chiều Thứ Hai 28.6.2010

Trân trọng kính mời Quý Sơ, các Hội Đoàn, các nhóm Tông Đồ và tất cả các gia đình trong giáo xứ sốt sắng dành thời giờ tham dự thánh lễ để cùng hiệp thông với Cha Chánh Xứ tạ ơn Thiên Chúa, cầu nguyện cho ngài và các Cha cùng khóa I Đại Chủng Viện Thánh Giuse Saigon.

Xin chân thành cám ơn và kính chào.
Thuận Phát, ngày 25.6.2010
HỘI ĐỒNG MỤC VỤ
Giáo xứ Thuận Phát

LẼ SỐNG 25.6

25 Tháng Sáu
Lau Chùi Làm Gì?

Trong những mẩu chuyện giáo lý ngắn, Ðức Gioan Phaolô I có thuật lại câu chuyện sau đây: "Những người xem thường việc năng đi xưng tội nhắc tôi nhớ đến anh giúp việc của ông Jonathan Swift. Một lần kia, sau khi ngủ đêm trong một quán trọ, ông Swift bảo người giúp việc đem cho ông đôi giày ống mà ông đã mang hôm qua. Khi thấy đôi giày còn dính đầy bụi đất của cuộc hành trình vất vả xuyên qua những cánh đồng lầy lội, ông Swift nhíu mày tỏ vẻ khó chịu và bảo anh giúp việc: "Tại sao anh lại không lau chùi đôi giày cho sạch sẽ?".

Thấy chủ bất bình và xẵng giọng, anh giúp việc hơi áy náy nhưng cũng gãi đầu, ấp úng thưa: "Tôi nghĩ là... lau chùi cũng không ích lợi gì. Vì hôm nay, sau khi ông đi vài dặm đường, đôi giày lại bị dơ bẩn trở lại".

Nghe người giúp việc biện luận như thế, ông Swift giả vờ gật đầu đồng ý rồi bảo người giúp việc: "Anh cho thắng yên ngựa, chúng ta khởi hành càng sớm càng tốt kẻo muộn".

Một lúc sau, mọi việc đã được thu xếp xong và ông Swift ra lệnh lên đường. Nhưng người giúp việc chạy vội đến kéo nài: "Thưa ông, chúng ta không thể lên đường ngay được vì tôi chưa ăn sáng".

Ông Swift vừa leo lên ngựa vừa bảo: "Ăn uống làm gì cho uổng công vì sau vài dặm đường, dạ dày anh lại cồn cào kêu đói".

Cũng thế, có nhiều người bảo: năng lãnh nhận bí tích Giải Tội có ích lợi gì. Vì thông thường sau khi xưng tội, linh hồn chúng ta lại bị dơ bẩn trở lại vì những tội tái phạm. Có lẽ họ cũng có lý. Nhưng giữ linh hồn thanh sạch một thời gian, dù ngắn ngủi, cũng là một việc nên làm. Lại nữa, những người hiểu đúng nghĩa của phép Giải Tội và Xưng Tội đúng cách sẽ được nghiệm thấy là phép Giải Tội không những rửa sạch mọi tì ố của tội lỗi, nhưng còn hiệu lực giúp chúng ta tránh tái phạm những lỗi lầm thường vấp ngã với mục đích củng cố tình thân hữu của mình với Ðức Giêsu và sống trọn tình hiếu thảo Cha con đối với Thiên Chúa.

Không ai trong chúng ta dùng cơm xong lại thu dọn ngay những chén đĩa, nồi niêu đã dùng vào sóng chén, viện cớ là: rửa làm gì cho uổng công, đến bữa an sau chúng lại dơ bẩn trở lại.

Cũng không ai bảo: giặt quần áo hay tắm gội làm gì cho hoài công, tốn nước. Một thời gian sau thân thể và quần áo lại bị dơ bẩn trở lại.

Vâng, Ðức Gioan Phaolô I dạy chúng ta: hãy năng đi xưng tội, dù biết rằng con người yếu đuối hay tái phạm những lỗi lầm mình đã vấp ngã. Và trong lúc lãnh nhiệm phép Giải Tội, hãy nhớ lời Ðức Giêsu bảo người phụ nữ ngoại tình: "Này chị, những kẻ tố cáo chị đâu cả rồi, không ai lên án chị ư? Ta cũng vậy, Ta không lên án chị. Hãy về và từ nay, đừng phạm tội nữa".


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Năm, 24 tháng 6, 2010

CHÚC MỪNG



GIÁO XỨ THUẬN PHÁT
Hân Hoan Chúc Mừng Bổn Mạng


Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn
Tổng Giám Mục Giáo Phận Saigon

Cha Gioan Baotixita Huỳnh Công Minh
Tổng Đại Diện Giáo Phận Saigon

Cha Gioan Baotixita Nguyễn Văn Đán
Bề Trên Hội Xuân Bích
Giám Đốc Đại Chủng viện Huế

Nguyện xin Thánh Bổn Mạng khẩn cầu Chúa ban cho Đức Hồng Y và Quý Cha ngàn muôn ơn phúc xác hồn.

LẼ SỐNG 24.6

24 Tháng Sáu
Cái Bóng

Có một người khờ nọ muốn thoát khỏi cái bóng của mình... Nhưng càng trốn thì cái bóng càng đeo đuổi anh. Anh lăn lộn trên đất, anh đâm xuống nước, dù anh đi đâu, dù anh làm gì, cái bóng của anh vẫn còn đó.

Có một người khôn ngoan nghe chuyện mới đến cố vấn cho anh khờ. Người khôn ngoan ấy nói như sau: "Ðể thoát khỏi cái bóng của anh, anh chỉ cần đến đứng dưới bóng của một cây lớn".

Có nép mình dưới bóng cây Thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta mới có thể thoát được cái bóng của không biết bao nhiêu phù phiếm, hư ảo trong cuộc sống của chúng ta.

Hôm nay Giáo Hội mừng kính trọng thể ngày sinh của một con người đã từng nép bóng dưới cây Thập giá của Chúa Giêsu. Con người ấy chính là Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Ðấng Cứu Thế, nhưng đồng thời cũng là người luôn nép bóng trong Chúa Giêsu.

Thánh Gioan đã tóm tắt tất cả cuộc sống của Ngài trong câu nói: "Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại". Dưới cái nhìn của con người, như Chúa Giêsu cũng đã có lần khen tặng, Gioan là con người cao cả nhất được sinh ra từ người nữ. Ngày sinh của Ngài được đánh dấu bằng những biến cố khác thường. Sự chào đời của Ngài đã mang lại niềm vui và hy vọng cho mọi người xung quanh. Vị tiên tri được xem là là cao cả nhất trong lịch sử Isreal ấy đã lôi kéo được một đám đông mà chưa từng có vị tiên tri nào đã quy tụ được... Thế nhưng, cuối cùng, để hoàn tất sứ mệnh của mình, con người ấy đã nhỏ lại và mất hẳn trong kiếp tù đày và một cái chết bỉ ổi.

Gioan nhỏ lại trong cái chết ấy, nhưng Chúa Giêsu lớn lên trong Mầu Nhiệm của Ngài, bởi vì cái chết của Gioan là một loan báo về chính cái chết của Chúa Giêsu... Nhưng cũng chỉ trong cái chết của Chúa Giêsu, cái chết của Gioan mới có ý nghĩa... Trong bóng thập giá của Chúa Giêsu, Gioan đã tìm lại được chính mình.

Chúng ta cầu xin điều gì trong ngày sinh của thánh Gioan Tẩy Giả nếu không phải là bước đi trong từng bước nhỏ lại của Ngài. Trong từng bước ấy, chúng ta hãy đặt mình dưới bóng vĩ đại của Thập giá Chúa Giêsu. Chỉ trong chiếc bóng vĩ đại ấy của Thập giá Chúa Giêsu, những nghịch cảnh, những đau thương, những nghi ngờ và ngay cả những cái chết từng ngày sẽ mang lấy ý nghĩa. Và ý nghĩa ấy là gì nếu không phải là sự lớn lên của Ðức Kitô trong chúng ta?

Chúng ta có nhỏ lại trong cái nhìn hẹp hòi ích kỷ của chúng ta, chúng ta có nhỏ lại trong những ham muốn ganh tỵ bất chính của chúng ta, chúng ta có nhỏ lại trong hận thù nhỏ nhen của chúng ta, thì lúc đó Ðức Kitô mới thực sự lớn lên trong chúng ta.


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Tư, 23 tháng 6, 2010

LẼ SỐNG 23.6

23 Tháng Sáu
Khối Ðá Cẩm Thạch

Một lần kia các phụ nữ giàu có sinh sống tại thành phố Firenze, miền bắc nước Italia nảy ra sáng kiến góp một khối đá cẩm thạch lớn và thuê một nhà điêu khắc tạc thành bức tượng nào tùy ý, mà ông nghĩ là dân chúng sẽ ưa thích để làm quà cho thành phố.

Nhưng có lẽ đây không phải là một nhà điêu khắc tượng có biệt tài hay vì khối đá bị sẻ không đúng theo quy luật điêu khắc, nên sau khi nghiên cứu một thời gian, ông ta không biết dùng khối đá để tạc tượng gì nên đành bỏ cuộc với lời quả quyết: "Ðây là một khối đá vô dụng".

Kể từ ngày ấy, khối đá cẩm thạch quý giá bị bỏ ngoài trời mặc cho mưa sa tuyết phủ. Một nhà điêu khắc khác cũng được mời đến xem khối đá, nhưng sau khi nhìn ngắm và có người thử phác họa vài nét nháp trên giấy, tất cả đều bỏ đi với cùng một ý kiến của nhà khắc tượng đầu tiên.

Cho đến một ngày kia, Michelangelo, nhà điêu khắc và kiến trúc thời danh có dịp ghé thăm thành phố nhà. Không rõ có ai lưu ý ông về khối đá hay ông tình cờ khám phá ra, nhưng ông cảm thấy muốn tạc một bức tượng được tạc từ khối đá mà ai cũng cho là vô dụng.

Ông đo mọi kích thước. Ông bỏ hàng ngày để nhìn ngắm khối đá để tìm hứng. Bỗng chốc ông thấy thật rõ ràng một bức tượng mà ông xác tín là dân chúng thành Firenze sẽ rất mến mộ. Ông nhìn thấy hình chàng thanh niên David vai mang cái ná bắn đá, tay cầm những hòn sỏi, trong tư thế sẵn sàng ra chiến đấu với tên khổng lồ Goliát.

Những nhà khắc tượng khác đồng ý cho rằng: đây là một khối đá vô dụng.

Nhưng dưới cặp mắt của Michelangelo khối đá ấy đã mang hình ảnh chàng thanh niên David, vị anh hùng dân tộc Do Thái và lập tức ông lấy dụng cụ bắt tay vào việc, mặc cho những người tạc tượng khác lắc đầu mỉm cười ngụ ý nói rằng: đây là thật công dã tràng.

Nhưng Michelangelo vẫn miệt mài làm việc, gác ngoài tai những tiếng thị phi. Rồi cuối cùng, mỗi nhát búa, mỗi cái đục đẽo làm nổi hẳn một bức tượng chàng David hiên ngang, oanh liệt, mà trải qua bao thế kỷ vẫn làm say mê hàng vạn du khách, trố mắt đứng nhìn một kỳ công tuyệt tác của nghệ thuật điêu khắc.

Không ai trong chúng ta là khối đá vô dụng khi được chọn để tạc thành những bức tượng tín hữu Kitô sống động dưới những nhát búa, nét đục của Chúa Giêsu.

Lời Chúa và sự hiện diện của Ngài muốn tạo chúng ta thành những Kitô hữu xứng với danh gọi, nghĩa là giống Chúa Giêsu.


Trích sách Lẽ Sống

ĐỌC BÁO VIETNAMNET

Việt Nam và Vatican sắp nhóm họp
Cập nhật lúc 08:29, Thứ Ba, 22/06/2010 (GMT+7),

- Trong hai ngày 23 và 24/6 tới tại Vatican, Việt Nam và Vatican sẽ tiến hành cuộc họp vòng 2 Nhóm công tác hỗn hợp Việt Nam - Vatican.


Việt Nam sẵn sàng thúc đẩy quan hệ với Tòa thánh trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Ảnh: VOV
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Phương Nga cho hay theo thỏa thuận giữa hai bên đạt được tại cuộc họp vòng 1 Nhóm công tác hỗn hợp Việt Nam - Vatican tại Hà Nội tháng 02/2009, cuộc họp vòng 2 của Nhóm sẽ được tổ chức tại Vatican nhằm tiếp tục thảo luận và thực hiện các nội dung đã đưa ra.
Đoàn Việt Nam do Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Quốc Cường làm Trưởng đoàn. Đoàn Tòa thánh Vatican do Thứ trưởng Ngoại giao Ettore Balestrero làm Trưởng đoàn.
Tại cuộc họp vòng 1 hồi tháng 02 năm ngoái, Nhóm công tác hỗn hợp Việt Nam – Vatican đã tiến hành họp dưới sự chủ trì của Thứ trưởng Nguyễn Quốc Cường và Thứ trưởng Ngoại giao Tòa thánh, Ðức ông Pietro Parolin.
Cuối năm ngoái, nhân chuyến thăm Italia, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã đến thăm Vatican và có cuộc gặp với Giáo hoàng Benedict XVI, Hồng y Tarcisio Bertone và Thủ tướng Vatican.
Trong các cuộc gặp, Chủ tịch nước khẳng định Việt Nam sẵn sàng thúc đẩy quan hệ với Tòa thánh trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, góp phần tích cực cho hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới. Chủ tịch nước cũng tin tưởng rằng, với thiện chí và quyết tâm của hai bên, quan hệ giữa Việt Nam và Tòa thánh Vatican sẽ tiếp tục phát triển phù hợp với mong muốn của hai bên.
Trước đó, việc thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức giữa Việt Nam và Vatican cũng đã được đề cập trong cuộc gặp giữa Giáo hoàng Benedict XVI và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Vatican tháng 1 năm 2007.
X.Linh
Báo VietnamNet ngày 22-6-2010.

Thứ Ba, 22 tháng 6, 2010

LẼ SỐNG 22.6

22 Tháng Sáu
Romeo Và Juliet

Một trong các vở tuồng bất hủ trên sân khấu kịch nghệ quốc tế phải kể là vở kịch mang tựa đề "Romeo và Juliet" của nhà văn hào trứ danh người Anh, ông William Shakespeare. Vở kịch này được sáng tác vào năm 1595, nhưng mãi cho đến nay, khi vở kịch được phổ nhạc, được các ca sĩ nổi tiếng trình diễn, khán giả vẫn nối đuôi nhau chờ mua vé để vào theo dõi một câu chuyện tình cảm động giữa hai thanh niên nam nữ yêu nhau thắm thiết, nhưng đường tình duyên bị trắc trở không thể tiến đến hôn nhân, vì chàng và nàng thuộc về hai gia đình có mối thù truyền kiếp với nhau trong bối cảnh xã hội mang nặng đầu óc nuôi oán, báo thù tại Italia thời trung cổ.

Sau khi nàng Juliet đem câu chuyện tình ngang trái tỏ lộ cùng một vị linh mục và cho ngài biết ý định sẽ cùng với Romeo thoát ly gia đình để tìm đến một phương trời xa lạ xây tổ uyên ương, vị linh mục đề nghị nàng dùng phương thế uống một thứ thuốc mê để giả chết. Sau đó ngài sẽ cứu sống nàng và giao cho Romeo đem nàng đi. Kế hoạch này được giữ bí mật đến nỗi chính chàng Romeo cũng không hay biết. Khi thấy người yêu đã vì mình dùng độc dược quyên sinh, chàng Romeo cũng dùng gươm tự sát để đáp lại mối tình tuyệt vọng của người yêu. Khi thuốc mê đã hết hiệu nghiệm, nàng Juliet tỉnh dậy thấy người yêu đang thoi thóp bên vũng máu đào: tình yêu kêu gọi tình yêu, nàng cũng dùng gươm lết liễu phận bạc để cùng chết với chàng.

Hình như những câu chuyện tình thương tâm trong tuồng kịch hay tiểu thuyết nào cũng kết thúc bằng trắc trở, chia ly, chết chóc. Dù bi ai, nhưng các câu chuyện ấy cũng nói lên một phần nào sự thật. Ðó có lẽ là lý do tại sao trong các thiệp hồng báo tin hôn lễ, các đôi trai gái tính chuyện trăm năm thường chọn và cho in câu: "Tình yêu mạnh hơn sự chết".

Trong các cuộc giao tế thường ngày giữa người với người hoặc trong mối quan hệ láng giềng, bạn bè, kể cả cha mẹ, con cái, anh chị em trong gia đình hay giữa tình thân, vợ chồng, chúng ta cần có những dấu chỉ biểu lộ ra bên ngoài để diễn tả tâm tình yêu mến chất chứa bên trong: Từ những dấu chỉ đơn sơ, thi vị "yêu nhau cởi áo cho nhau" đến chỗ hy sinh cả cuộc đời tận tụy, làm lụng vất vả, gánh chịu những nhọc nhằn, chịu đựng tha thứ cho nhau "Một câu nhịn, chín câu lành" đối với những người thân thương trong gia đình.


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Hai, 21 tháng 6, 2010

LẼ SỐNG 21.6

21 Tháng Sáu
Nhân Danh Thiên Chúa Ba Ngôi

Christophoro Columbo, người đã khám phá ra Châu Mỹ vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ 15, có lòng sùng kính Chúa Ba Ngôi cách đặc biệt. Trước mọi hoạt động, ông đều kêu cầu Chúa Ba Ngôi cũng như ông luôn khởi đầu những gì mình viết bằng dòng chữ: "Nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh".


Lần kia, khi Columbo trình bày về thuyết "Trái đất tròn" trước một nhóm học giả được gọi là Hội Ðồng Salamanca, một tổ chức quy tụ những nhà khoa học và thần học danh tiếng nhất thời bấy giờ, ông đã khởi đầu như sau: "Hôm nay tôi được hân hạnh đứng trước mặt các ngài nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh, vì hoàng đế đã truyền lệnh cho tôi đệ trình lên sự khôn ngoan của quý vị một dự án mà tôi xác tín là Chúa Thánh Thần Ba Ngôi Thiên Chúa đã gợi hứng cho tôi".

Trong cuộc hành trình thứ ba của ông khởi hành năm 1498, Columbo đã thề hứa sẽ hiến dâng cho Chúa Ba Ngôi phần đất nào ông khám phá ra đầu tiên, vì thế hòn đảo ông đặt chân xuống đầu tiên trong cuộc hành trình thám hiểm Tân thế giới ấy cho đến nay vẫn được gọi là "Trinidad", tức là Chúa Ba Ngôi.

Trong suốt cuộc đời, người Kitô hữu chúng ta luôn kinh nghiệm sự gần gũi của Ba Ngôi Thiên Chúa: lúc vừa mở mắt chào đời, chúng ta được nhận lãnh Phép Rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi. Trong suốt ngày sống, chúng ta thường ghi dấu thánh giá trên mình với lời chúc tụng nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, cũng như mỗi lần chúng ta dùng bữa hay khi khởi đầu mọi sinh hoạt.

Cộng vào đấy mỗi lần chúng ta vấp ngã và khiêm nhượng đi xưng thú những lỗi lầm trong tòa cáo giải, chúng ta được giao hòa lại với Thiên Chúa và cộng đoàn nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi và cũng nhân danh Người các đôi trai gái yêu nhau được nối kết để chung sống đời hôn nhân.

Rồi cả các bệnh nhân cũng được ban ơn sức mạnh nhờ danh Thiên Chúa Ba Ngôi để khi nhắm mắt xuôi tay, các Kitô hữu chúng ta cũng được tiễn đưa vào cuộc sống đời sau và được chôn cất nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.

Mặt khác, Chúa Ba Ngôi cũng là trung tâm và mục đích mọi hoạt động của những kẻ tin kính Người. Bởi thế chúng ta thường kết thúc nhiều Kinh và những sinh hoạt bằng câu: "Sáng danh Ðức Chúa Cha và Ðức Chúa Con và Ðức Chúa Thánh Thần".

Trích sách Lẽ Sống

Chủ Nhật, 20 tháng 6, 2010

BÓNG ĐÁ


Thể thao bóng đá và đời sống đức tin tôn giáo
VietCatholic News (19 Jun 2010 08:55)

Bóng đá ngày nay trở thành môn thể thao phổ thông khắp nơi trên thế giới. Và qua môn thể thao này như trở nên niềm tự hào hãnh diện có tiếng tăm không chỉ cho cá nhân cầu thủ có cặp giò vàng đá banh nổi tiếng, nhưng còn cho đoàn thể xã hội địa phương tỉnh thành, và cho cả quốc gia đất nước châu lục nữa.

Như nói đến Âu châu, đến Nam Mỹ châu, người ta nghĩ ngay đến môn thể thao bóng đá. Vì đó là một trong những đặc điểm nổi bật của hai châu lục này.

Không dám đem Tôn giáo, một lãnh vực tinh thần cao cả, ra so sánh với môn chơi thể thao bóng đá. Nhưng quan sát nếp sinh hoạt hai lãnh vực này, ta cũng có thể thử tìm ra xem có được một ít điểm tương đồng cũng như không tương đồng. Vì cả hai đều có liên quan đến con người cả phần thân xác lẫn tinh thần.

Những trận cầu thi đấu bóng đá thế giới đang diễn ra ở đất nước Nam Phi lần thứ 19. từ ngày 11.06.2010 giúp chúng ta cơ hội suy tư về sự tương quan giữa bóng đá và đời sống đức tin Công giáo.

Trong sinh hoạt cả hai lãnh vực đều có những Nghi thức. Lẽ tất nhiên, không phải cả hai có nghi thức giống nhau và số lượng như nhau. Không, mỗi lãnh vực có nghi thức riêng và nhiều ít đều khác biệt nhau.

Nghi thức cầu nguyện là căn bản của đời sống tôn giáo trong mọi hoàn cảnh đời sống. Cầu nguyện cùng Thiên Chúa là hơi thở của người tín hữu. Cầu nguyện giúp người tín hữu lấy lại sức lực quân bình cho tâm hồn.

Trong lãnh vực thể thao đá banh, ta cũng thấy các cầu thủ cầu nguyện trước, đang khi và sau khi thi đấu đá banh. Hình thức cầu nguyện của họ thấy được lúc họ chắp tay trên ngực, ngước mắt lên trời, có những cầu thủ qùy gối xuống sân cỏ chắp tay ngửa mặt lên cầu miệng lẩm bẩm lời cầu xin. Họ nói lời gì ta không nghe thành tiếng. Nhưng có phần chắc họ kêu xin Trời cao giúp họ đá banh tốt, hay cám ơn đã giúp đá trái banh phá lưới mang lại chiến thắng cho đội. Vì họ tin là ơn trợ giúp của Trời cao rất cần trong thi đấu. Chả thế mà dân gian có câu ngạn ngữ nói lên sự tin tưởng vào ơn Trên: Mình tính không bằng Trời tính!

Như thế cầu nguyện là nhu cầu quan trọng cho con người trong cả hai lãnh vực tôn giáo lẫn thể thao bóng đá.

Nghi thức ca hát cũng có ở cả hai lãnh vực này. Khi bắt đầu Thánh Lễ, cả nhà thờ thờ hay Ca đoàn hát với tiếng đàn trống bài thánh ca vang lên trong thánh đường. Lời ca tiếng hát mang đến không khí thánh thiêng rộn ràng, gây lòng vui mừng phấn khởi mọi người. Như thế buổi lễ tăng phần long trọng cùng ý nghĩa thêm.

Bắt đầu trận thi đấu bóng đá, bài quốc ca hay còn gọi gọi là quốc thiều của hai đội thi đấu cũng được ban nhạc cử lên và mọi người trong vận động ai biết thì cùng hát to tiếng. Bài quốc ca được hát hay đàn chơi cử lên mang lại niềm tự hào hãnh diện, không khí rộn ràng trân trọng cho quốc gia cử đội tuyển đi thi đấu. Và mọi khán gỉa trong cầu trường, nhất là các cầu thử đứng ở sân cỏ và nhóm khán gỉa của đội tuyển nước đó không chỉ cảm động, mà còn tự hào hãnh diện cho thể diện quốc gia mình nữa.

Trong thánh đường khi có Thánh lễ hay giờ phụng vụ, không chỉ hát một bài hát, nhưng còn nhiều bài khác nhau ở mỗi phần đoạn phụng vụ. Và những bài thường có nhiều tiểu khúc diễn tả tâm tình tạ ơn, ca tụng hay cầu xin của con người muốn nói với Thiên Chúa dựa trên nền tảng Kinh Thánh, cùng nhuốm đậm không khí hòa bình.

Trái lại, bài hát mọi người hát hò reo trong sân động thường ngắn, phần nhiều có một tiểu khúc hay một câu dễ thuộc dễ hát thôi. Những bài ca hát hò reo đó không chỉ mang mầu sắc phấn khởi vui mừng, nhưng có khi còn nhuốm mầu sắc chỉ trích thách thức đội banh đối thủ hay trọng tài nữa.

Nghi thức làm dấu Thánh gía. Người Công giáo mỗi khi bước vào thánh đường hay cả lúc đi ra, đều lấy tay chấm nước Thánh để nơi cửa ra vào làm dấu Thánh gía trên mình. Nghi thức nhắc nhớ lại Bí tích rửa tội ngày xưa đã lãnh nhận bằng nứơc và trong Ba ngôi Thiên Chúa biểu hiệu qua dấu Thánh gía. Ngoài ra họ còn làm dấu Thánh gía mỗi khi đọc kinh cầu nguyện nữa.

Trong thể thao bóng đá không có nghi thức bắt buộc này. Nhưng trong thực tế, nhiều cầu thủ, nhất là cầu thủ vùng Nam Mỹ, hay Tây ban Nha mỗi khi ra sân cỏ thi đấu, họ đều lấy tay chấm sân cỏ và làm dấu Thánh gía trên mình. Huấn luyện viên nổi tiếng Maradona của đội tuyển Argentina, có thói quen làm dấu Thánh gía trên mình nhiều lần, khi đội tuyển của ông bắt đầu xuất trận thi đấu.

Người tín hữu Công giáo chấm tay vào nước Thánh làm dấu Thánh gía. Còn cầu thủ đá banh, nếu có làm dấu Thánh gía tùy theo mỗi cá nhân, lại lấy tay quệt xuống sân cỏ.

Nghi thức chúc bình an. Người tín hữu Công giáo trong Thánh lễ Misa đến phần trước khi rước lễ, có nghi thức chúc bình an cho nhau. Chúc bình an là cung cách chào hỏi thân thiện chúc mừng, cám ơn nhau ngay trong giờ phút thánh thiêng nhiệm mầu giữa thánh lễ. Qua đó họ muốn chiếu tỏa trao cho nhau niềm vui hạnh phúc qua cử chỉ bắt tay, hay cúi đầu chào bái nhau.

Trên sân cỏ thi đấu, khi một cầu thủ đá banh tung lưới mang lại chiến thắng cho đội, các cầu thủ đội thắng hân hoan mừng rỡ vội vã chạy lại ôm hôn nhau. Chúc mừng nhau, có khi cả huấn luyện viên và những cầu thủ dự bị chờ ngoài sân cũng chạy vào sân cỏ ôm chúc mừng cầu thủ vừa đá tung lưới đối phương. Cử chỉ này mang thêm tinh thần phấn khởi tự tin cho toàn thể cầu thủ và những khán gỉa ủng hộ nữa. Cung cách này đậm mầu sắc tình tự tinh thần đoàn kết của con người cùng chung vui sẻ buồn với nhau trong mọi cảnh ngộ đời sống.

Kèn Vezuzula

Trong sân vận động ở nước Nam Phi, các khán gỉa mang theo chiếc kèn mầu đỏ hay vàng làm bằng nhựa dài khoảng một mét. Ngoài tiếng reo hó hát xướng, họ còn thổi kèn lên. Âm thanh phát ra từ tiếng kèn đơn thuần một âm vang. Nó không giống âm điệu mà chúng ta thường nghe phát ra từ tiếng đàn. Có người nghĩ là giống tiếng của đàn ong phát ra. Có nhận xét cho rằng đó là âm thanh thiên nhiên của vùng miền Phi Châu. Âm thanh này kỳ lạ nghe chói tai làm căng thẳng thần kinh.

Kèn này có tên là Vuvuzela. Âm thanh phát ra từ Vevuzula là tiếng gào thét phản ảnh nhớ lại sự đau đớn thống khổ của người dân trong thời kỳ sống trong ách bị đô hộ thời thuộc địa, như Ông Maluleke, một vị trong hội đồng tôn giáo Nam Phi, cắt nghĩa như vậy.

Cũng theo Ông Malukele, kèn Vuvuzela ở nước làng giềng Botswana được coi là một loại nhạc cụ Kinh Thánh. Và theo Jaqueline Chireshe: Thiên Chúa muốn con ngưòi ca tụng Ngài bằng âm thanh của tiếng kèn.

***************

Môn thể thao bóng đá không là đời sống. Nhưng nó là một sinh hoạt trong nếp sống văn hóa của đời sống con người.

Môn thể thao này cũng không phải là một tôn giáo. Nhưng nó giúp nhắc nhớ con người đến thân xác và tinh thần của mình là món qùa tặng châu báu Trời cao ban cho.

Vì thế vui chơi thi đấu dành phần chiến thắng, danh dự, nhưng không quên đến ý nghĩa tập luyện cho thân xác cùng tinh thần trở nên khoẻ mạnh dẻo dai tinh nhanh, nhất là tinh thần cao thượng kính trọng nhau.

“Mens sana in corpore!”( Juvenal, 60-127 sau Công nguyên)

Mùa World Cup 2010
Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
(nguồn : vietcatholic.net)

AUDIO THANH LE CHUA NHAT XII TN NAM C

Audio Thanh Le Chua Nhat XII thuong nien nam C.
Cha giao GioanBaotixita Nguyen Van Dan dang le.
Ca doan Cecilia hat le.
Moi bam VAO DAY va chon bai nghe.

Huu Toan.

LẼ SỐNG 20.6

20 Tháng Sáu
Ai Hơn Ai?

Trong một khu vườn tuyệt đẹp kia có nhiều loại hoa đua nhau khoe màu tranh sắc: Hoa Hồng, hoa Hướng Dương, hoa Vạn Thọ, hoa Cúc, kể cả vài cụm bông Móng Tay và bông Mười Giờ.


Một ngày kia, có người đến nhìn ngắm những bông hoa đẹp, rồi lấy một cây thước ra đo chiều cao, chiều dài cũng như đếm số các nụ hoa. Xong ông ta bỏ đi.

Ý thức về chiều cao và độ lớn của mình, hoa Hướng Dương càng vươn cổ lên cao và nói: "Trong khắp khu vườn, không hoa nào lớn mạnh như chúng tôi". Nghe nói thế, hoa Hồng lên tiếng: "Nhưng không hoa nào đẹp và tỏa hương thơm ngát như chúng tôi". Không chịu thua ai, hoa Vạn Thọ góp lời: "Hai người nói thế nghe sao phải, to lớn và thơm tho nào có ý nghĩa gì. Hai người làm gì có được nhiều bông hoa như chúng tôi".

Nghe những loại hoa trên tranh luận, các loại hoa Cúc, hoa Móng Tay và hoa Mười Giờ cảm thấy tủi phận. Hoa Móng Tay tìm lời an ủi hoa Mười Giờ: "Bọn mình không đẹp, không thơm, nhưng được cái là dễ trồng nên được nhiều người ưa thích".

Sau đó, khu vườn trở lại yên lặng trong khoảnh khắc. Nhưng hoa Cúc phá tan sự im lặng nặng nề với những phát biểu sau đây: "Sao các anh, các chị lại có thể suy nghĩ thế? Bởi đâu các anh các chị lại tranh nhau về chiều cao, về độ lớn, về vẻ đẹp, về hương thơm. Anh chị quên rằng: Dù lớn hay nhỏ, dù mạnh hay yếu, dù đỏ hay vàng, mọi bông hoa đều nhận lãnh hình hài, vẻ đẹp và hương thơm từ bàn tay của Ðấng Tạo Hóa và dưới mắt Người chúng ta đều như sau. Mỗi chúng ta đều được Người ban cho đồng đều ánh sáng và hơi ấm của mặt trời. Mỗi bông hoa đều được Người cho mưa rơi xuống gốc và sương sa trên mình như nhau. Ðó là Mầu Nhiệm của lòng quảng đại và khoan nhân của Thiên Chúa".

Sự phân bì, ghen tuông đã và đang làm khổ đau cho con người cũng bằng tính tự cao, tự đại hay ít ra tính phân bì, ghen ghét cũng làm cho chúng ta không được thư thái, bình an. Vì thế, có người đã đề ra những phương pháp sau đây như những điều kiện để được hưởng sự bình an trong tâm hồn:

- Nếu tôi không muốn so sánh mình với người khác, tôi sẽ cảm thấy hạnh phúc với những gì tốt đẹp nơi tôi.

- Nếu tôi không làm nô lệ cho sự thành công, tôi có thể sản xuất những thành quả tốt đẹp kẻ khác chờ đợi nơi tôi.

- Nếu tôi không để mình bị vướng vào mạng lưới của sự cạnh tranh, tôi sẽ thông phần và chia sẻ được những cái tốt đẹp hàm ẩn trong tất cả mọi người.

Trích sách Lẽ Sống

LỜI CHÚA CN 12 THƯỜNG NIÊN NĂM C (Lc 9, 18-24)

Thứ Bảy, 19 tháng 6, 2010

LẼ SỐNG 19.6

19 Tháng Sáu
Thế Ư?

Hakuin là một thiền sư nổi tiếng tại Nhật Bản, ông sống ẩn dật trên núi. Ngày kia, có một thiếu nữ con nhà gia giáo bỗng thấy mình có thai. Cô nàng tuyên bố với mọi người rằng chính thiền sư Hakuin là tác giả của bào thai. Vừa nghe tin này, cả dân làng, do cha mẹ của cô thiếu nữ dẫn đầu, đã giận dữ kéo đến chòi của vị thiền sư. Họ la hét, chửi rủa vị thiền sư đủ điều...

Nhưng vốn điềm tĩnh, nhà sư chỉ biết mỉm cười thốt lên: "Thế ư?". Ai cũng nghĩ đó là một cách chịu tội. Ai cũng nghĩ chính ông là tác giả của bào thai trong lòng người thiếu nữ. Khi đứa bé chào đời, thiền sư Hakuin lặng lẽ đến nhận nó và đưa về chiếc chòi nghèo nàn của mình. Ông bồng lấy nó, nâng niu nó và chăm sóc nó như chính đứa con ruột của mình.

Nhưng khoảng 18 năm sau, người thiếu nữ bỗng hối hận về hành vi của mình. Cô thú nhận rằng người cha của đứa bé chính là chàng ngư phủ trẻ trong làng.

Nghe tin này, ai ai trong làng cũng cảm thấy xấu hổ vì đã nghĩ xấu và nhục mạ một con người đáng kính. Một lần nữa, dưới sự dẫn đầu của cha mẹ thiếu nữ, cả làng kéo nhau đến chòi của vị thiền sư. Mọi người sụp lạy tỏ dấu sám hối vì đã xúc phạm đến thanh danh của vị đạo sĩ thánh thiện. Giữa lúc mọi người đồng thanh tuyên bố sự vô tội và cứu gỡ danh dự cho mình, vị thiền sư chỉ mỉm cười nói: "Thế ư?".

Hai tiếng "Thế ư?" của thiền sư Hakuin trên đây xem chừng như cũng cùng một âm điệu với hai tiếng "Xin vâng" của Mẹ Maria.

Thái độ điềm nhiên và chấp nhận không chỉ là kết quả của một sự rèn luyện ý chí, nhưng còn là một thể hiện của niềm tin. Thưa xin vâng trước tiên có nghĩa là tuyên xưng Tình Yêu không hề lay chuyển của Thiên Chúa. Thưa xin vâng là chấp nhận đi vào chương trình của Thiên Chúa, trong đó cho dù phải trải qua tăm tối và thử thách, con người vẫn tin ở sự thành toàn.

Thưa xin vâng cũng có nghĩa là nói lên niềm tin nơi chính bản thân: dù có yếu hèn, vấp ngã, con người vẫn luôn là đối tượng của một Tình Yêu chung thủy và là trọng tâm của một chương trình cao cả mà thiên Chúa đang thực hiện.

Thưa xin vâng cũng có nghĩa là nói lên niềm tin vào cuộc đời. Cuộc đời này, dù có đen bạc đến đâu, vẫn luôn có một ý nghĩa và tha nhân, dù có thấp hèn, xấu xa đến đâu, vẫn tiếp tục mang lấy hình ảnh cao vời của Thiên Chúa.


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Sáu, 18 tháng 6, 2010

LẼ SỐNG 18.6

18 Tháng Sáu
Tạ ơn Chúa

Thi sĩ Lamartine của Pháp có kể lại một giai thoại như sau: Một hôm, tình cờ đi qua một khu rừng, ông nghe một âm thanh kỳ lạ. Cứ sau mỗi tiếng búa gõ vào đá lại vang lên một tiếng "Cám ơn". Ðến gần nơi phát ra âm thanh, thi sĩ mới nhận thấy một người thợ đang miệt mài làm việc. Cứ mỗi lần gõ vào phiến đá, ông lại thốt lên "Cám ơn'.

Thi sĩ Lamartine mới nấn ná đến trò chuuyện, người thợ đập đá giải thích: "Tôi cảm ơn Chúa". Ngạc nhiên về lòng tin của một con người mà cuộc sống hẳn phải lầm than lam lũ, thi sĩ mới nói: "Giả như bác được giàu có, thì tôi hiểu tại sao bác không ngừng thốt lên hai tiếng cám ơn. Ðằng này, Thiên Chúa chỉ nghĩ tới bác có mỗi một lần duy nhất đó là lúc Ngài tạo nên bác. Sau đó, Ngài ban cho bác có mỗi cái búa này để rồi không còn ngó ngàng gì đến bác nữa. Thế thì tại sao bác lại mỏi miệng để cám ơn Ngài?".

Nghe thế, người đập đá mới hỏi vặn lại thi sĩ: "Ngài cho rằng Chúa chỉ nghĩ đến tôi có một lần thôi sao". Thi sĩ Lamartine bèn thách thức: "Dĩ nhiên, Chúa chỉ nghĩ đến bác có mỗi một lần mà thôi".

Người thợ đá nghèo, nhưng đầy lòng tin, mới mếu máo thốt lên: "Tôi nghĩ rằng điều đó không có gì đáng ngạc nhiên cả. Ngài nghĩ rằng Thiên Chúa đã đoái thương đến một người thợ đá thấp hèn như tôi, dù chỉ một lần thôi. Vậy không đủ cho tôi cám ơn Ngài sao? Vâng, cám ơn Chúa, cám ơn Chúa". Nói xong, ông bỏ mặc cho thi sĩ đứng đó và tiếp tục điệp khúc quen thuộc của ông, vừa đục đá vừa tạ ơn Chúa.

Thiên Chúa yêu thương con người. Ðó là bài ca mà chúng ta không chỉ hát lên trong mùa Giáng Sinh, mà phải được lập lại trong từng khoảnh khắc của cuộc sống. Nhưng khi chúng ta nói: Thiên Chúa yêu thương con người, điều đó trước hết phải có nghĩa là Ngài yêu thương tôi. Thiên Chúa không yêu thương con người bằng một cách chung. Thiên Chúa yêu thương mỗi người bằng một tình yêu cá biệt, riêng rẽ. Ðiều đó cũng có nghĩa là mỗi người là một chương trình trong trái tim của Thiên Chúa.

Ðối với Thiên Chúa, không có đám đông vô danh, cũng không có những con số. Ngài gọi mỗi người bằng tên gọi riêng... Chúng ta không thể đo lường Tình Yêu của Thiên Chúa bằng thước đo hẹp hòi, thiển cận của chúng ta. Trong Tình Yêu Quan Phòng của Ngài, mỗi một con người là một chương trình và mỗi một chương trình đều cao cả. Thiên Chúa không tạo dựng chúng ta theo một khuôn mẫu, mà theo một chương trình riêng cho mỗi người. Mỗi một biến cố xảy đến đều được Ngài sử dụng để đem lại điều thiện hảo cho chúng ta. Nói như thánh Phaolô, Thiên Chúa quy mọi sự về điều thiện cho những kẻ Ngài yêu thương. Cũng chính vị thánh này nói: "Tất cả nọi sự đều là ân sủng của Chúa".


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Năm, 17 tháng 6, 2010

LẼ SỐNG 17.6

17 Tháng Sáu
Ðời Vẫn Có Ý Nghĩa

Một tác giả người Thụy Ðiển đã tưởng tượng ra một cuộc tranh luận sôi nổi diễn ra giữa các dân cư sinh sống tại một khu rừng nọ. Ðề tài của cuộc tranh luận là: Ðâu là ý nghĩa của cuộc sống?...

Kẻ kên tiếng phát biểu ý kiến đầu tiên không ai khác hơn là chú chim họa mi suốt ngày chỉ biết ca hát líu lo. Chú khẳng định rằng: "Ðời là một cuộc ca hát không ngừng". Một chú chuột chũi phản pháo tức khắc.

Theo chú: "Ðời là một cuộc tranh đấu không ngừng để chống lại bóng tối". Con bướm có đôi cánh sặc sỡ thốt lên: "Ðời là vui chơi và hạnh phúc". Con ong đang miệt mài tìm mật bên mấy cánh hoa không tán thành ý kiến ấy chút nào. Nó bảo rằng: "Ðời là một cuộc lao động vất vả". Con kiến cũng nhất trí với con ong để chỉ thấy rằng đời là lao động. Từ trên cao, một con phượng hoàng cũng góp ý kiến: "Ðời là tự do". Ðó là ý kiến của động vật.

Các thảo mộc cũng không thiếu ý kiến để đóng góp. Cây thông cao sừng sững giữa rừng hoàn toàn tán thành ý kiến của con phượng hoàng: "Ðời là tự do". Một cánh hoa dại giữa rừng thì lại hùa theo con ong và con kiến để khẳng định rằng đời chỉ là lao động vất vả. Cánh hoa hồng thì lại đồng quan điểm với con bướm để cho rằng đời là hạnh phúc và vui tươi.

Thế giới vô tri cũng lên tiếng phát biểu. Một đám mây đen ngao ngán thốt lên: "Ðời chỉ là đắng cay và nước mắt". Một dòng sông hiền hòa trôi chảy cũng nhận định: "Ðời là một dòng nước chảy không ngừng".

Lời phát biểu cuối cùng nhưng cũng là ý kiến tổng kết của cuộc tranh luận là tiếng chuông từ một giáo đường bên cạnh khu rừng. Thật thế, tiếng chuông ấy ngân lên những lời như sau: "Tất cả những lời phát biểu của quí vị đều đúng cả. Ðời là hòa bình, đời là ca hát, đời là vui tươi, đời là tranh đấu, đời là bể khổ, đời là đắng cay, nhưng tất cả đều tươi nở trong lòng người nhờ quyền lực của Chúa Thánh Thần".

Tôi bởi đâu mà đến? Tôi sẽ đi về đâu? Tại sao tôi đau khổ? Ðó là những câu hỏi lớn nhất mà một lúc nào đó trong cuộc sống, chúng ta không thể tránh né được.

Cám ơn Chúa vì đã cho chúng ta giải đáp trong chính Chúa Giêsu Kitô. Chính Ngài là Ánh Sáng chiếu rọi trên bí ẩn của cuộc đời cũng như trên chính Mầu Nhiệm của con người. Công đồng Vatcican II trong hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng đã nói với chúng ta rằng huyền nhiệm của con người chỉ có thể được sáng tỏ trong chính Mầu Nhiệm của Ngôi Hai Nhập Thể. Chúng ta chỉ có thể tìm thấy câu trả lời cho những câu hỏi lớn của cuộc sống bằng cách nhìn vào Ðức Giêsu Kitô. Quả thật, Ngài đã sống kiếp con người như mọi người. Nhưng chính khi tiếp nhận mọi mùi vị của cuộc sống, Ngài đã mặc lấy cho cuộc sống một ý nghĩa, một hướng đi.

Cuộc sống có ngọt bùi, đắng cay, chua sót, cuộc sống có lao động, tranh đấu hay thảnh thơi... Tất cả đều mang lấy một ý nghĩa. Trong Chúa Giêsu, mất mát trở thành thắng lợi, thua thiệt trở thành cơ may, đau khổ trở thành dịu ngọt, cái chết trở thành khởi đầu của sự sống.

Nếu chúng ta đón nhận cuộc đời này bằng với cái nhìn ấy, thì quả thực không một thử thách, mất mát, đau khổ nào khiến chúng ta thất vọng. Với Quyền Lực của Thánh Thần mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta, những bể khổ, những đắng, cay chua xót của cuộc sống đều có thể nở hoa, những niềm vui nhỏ ấy sẽ mang lấy chiều kích vĩnh hằng, những việc làm vô danh thường ngày sẽ mang lấy giá trị vĩnh cửu.


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Tư, 16 tháng 6, 2010

LẼ SỐNG 16.6

16 Tháng Sáu
Hãy Ðến Với Ta

Tại Roma có một ngôi thánh đường cổ tên là Dominus sub aquis, nghĩa là Chúa ở dưới nước... Du khách đến Roma thường đến viếng thăm ngôi thánh đường này, vì phía trên bàn thờ, có một tượng thánh giá rất đặc biệt: bất cứ ai đến quỳ trước tượng thánh giá và cầu nguyện với tất cả thành tâm đều nhận được sức mạnh và niềm an ủi thâm sâu...

Người ta kể lại rằng tác giả của tượng thánh giá bằng cẩm thạch này đã mất rất nhiều năm mới hoàn thành được tác phẩm. Hơn hai lần, mỗi khi treo bức tượng lên để ngắm nhìn, ông lại cho kéo xuống và đập phá đi vì ông cho rằng tác phẩm vẫn chưa diễn đạt được điều ông mong muốn...

Sau nhiều năm bỏ dở, ông lại bắt tay vào công trình lần thứ ba. Nhưng chính lúc ông miệt mài chú tâm vào công việc thì cũng là lúc ông gặp nhiều thử thách nhất. Nhiều người ganh tỵ nên tìm cách hạ uy tín của ông. Vợ con ông qua đời trong những hoàn cảnh thật đau thương. Người nghệ sĩ chỉ còn biết kêu cầu xin Chúa giúp ông chịu đựng được mọi gian lao thử thách.

Ai cũng tưởng rằng cơn thử thách đã khiến ông bỏ cuộc. Trái lại, ông càng miệt mài chú tâm vào công trình. Người nghệ sĩ dồn tất cả niềm đau của mình lên khuôn mặt của Ðức Kitô. Bức tượng của Chúa Giêsu trên thập giá không là một phiến đá lạnh lùng, xa lạ, mà trở thành niềm đau đậm nét của một tâm hồn. Bức tượng đã trở nên sống động và có sức thu hút do chính tâm tình mà người nghệ sĩ đã muốn tháp thập vào đó.

"Hỡi tất cả những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến với Ta và Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho".

Lời mời gọi trên đây của Chúa Giêsu hẳn phải đem lại cho chúng ta an ủi đỡ nâng, nhất là trong những lúc chúng ta gặp đau khổ, thử thách. Chúa Giêsu như muốn nói với chúng ta rằng Ngài đang có đó, Ngài có mặt trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta, Ngài mang lấy tất cả những sầu đau, buồn tủi của chúng ta. Mãi mãi, Ngài vẫn là Ðấng Cứu Chuộc chúng ta. Mãi mãi, Ngài đến với chúng ta như đến với những người phong hủi, những kẻ bệnh tật, kẻ tội lỗi, phường thu thuế... Ngài đón nhận tất cả mọi khổ nhọc, khó khăn của chúng ta. Và bởi vì Ngài mang lấy mọi khổ đau của con người, cho nên Ngài cũng tự đồng hóa với con người, nhất là những người nghèo khổ, bất hạnh. Trên những khuôn mặt gần như không còn hình tượng của con người nữa, chúng ta phải nhận diện được chính Ngài. Ngài đã từng nói với chúng ta: "Ai cho những kẻ bé mọn nhất, dù chỉ một chén nước lã thôi, họ đã cho chính Ta vậy".

Trút lên Ngài tất cả gánh nặng của khổ đau, được ngài nâng đỡ bổ sức, chúng ta cũng hãy mang lại an ủi đỡ nâng cho mọi người xung quanh. Sự đau khổ nào cũng có sức liên kết con người. Kết hiệp với Ðức Kitô trên thập giá, chúng ta cũng dễ dàng liên đới, cảm thông với mọi người đang đau khổ...


Trích sách Lẽ Sống