Thứ Sáu, 14 tháng 5, 2010

LẼ SỐNG 14.5

14 Tháng Năm
Hương Vị Của Khói

Ðể đả phá tính ích kỷ, người Ả Rập thường kể câu chuyện như sau:

Tai một khu phố nọ, có không biết bao nhiêu cửa hàng ăn uống mọc lên. Hương vị bốc lên từ các cửa hàng này thu hút những người giàu lẫn kẻ nghèo. Những người giàu đến đây để thưởng thức những của ngon vật lạ, còn những người nghèo thì chỉ mong ăn được chút cơm thừa canh cặn hay cùng lắm là chỉ để hít thở được hương vị thơm ngon bốc lên từ các nhà bếp...

Một hôm, có một người nghèo mon men đến một cửa hàng. Trên tay anh cầm một ổ bánh mì. Anh người nghèo này có ý nghĩ độc đáo: thay vì chầu chực hưởng phần ăn thừa của thực khách, anh bèn leo lên mái nhà, rồi ngồi cạnh ống khói của nhà bếp. Anh vừa nhai bánh mì vừa hít thở làn khói bốc ra từ nhà bếp, anh nhai ngấu nghiến ổ bánh mì mà tưởng tượng như mình đang thưởng thức những của ngon được dọn trên bàn thượng khách.

Nhưng không may cho anh, vì hôm đó người chủ nhà hàng gặp nhiều rắc rối trong công việc làm ăn cho nên không có được bộ mặt vui tươi cho mấy. Thế là ông sai những người hầu bàn lôi cổ người ăn xin xuống khỏi mái nhà và yêu cầu trả tiền. Ông lý luận với người ăn xin như sau: "Khói bốc ra từ nhà bếp của ta không phải là khói chùa, nhà ngươi đã thưởng thức làn khói đầy hương vị đó, yêu cầu nhà ngươi trả tiền cho ta".

Người ăn xin không chịu trả tiền. Nội vụ đã được đem ra trước tòa án. Quan đầu tỉnh phải nhức đầu vì vụ án này. Ông cho triệu tất các bực thức giả trong toàn tỉnh để giúp ông giải quyết vụ án. Những người này đưa ra hai ý kiến xem ra đều có lý cả: một bên nói rằng khói bốc ra từ cửa hàng, do đó nó là chủ hữu của ông chủ cửa hàng. Những người khác thì cho rằng khói cũng như không khí là của mọi người, thành ra người ăn xin có quyền hưởng mà không phải trả đồng xu nào.

Sau khi đã bàn bạc và cân nhắc, quan đầu tỉnh mới đưa ra phán quyết như sau: "Người nghèo đã hưởng khói mà không đụng đến thức ăn, cho nên anh ta hãy lấy một đồng bạc, ra giữa công viên, gõ đồng bạc vào ghế đá, âm thanh của đồng bạc sẽ lan ra. Người chủ cửa hàng muốn đòi tiền của khói, ông hãy lắng nghe âm thanh ấy".

Người kể câu chuyện ngụ ngôn trên đây có lẽ muốn nói với chúng ta rằng sự ích kỷ không mang lại cho chúng ta một lợi lộc nào.

Nhưng sự ích kỷ không bao giờ mang tính chất trung lập. Nghĩa là khi tôi khép kín tâm hồn, khi tôi chỉ biết nghĩ đến mình, không những tôi làm cho người khác bớt hạnh phúc, mà chính tôi cũng chết đi một phần trong tôi. Tình liên đới không phải là một thứ xa xỉ phẩm được thêm vào tương quan giữa người với người hoặc như một thứ tô điểm phụ thuộc cho nhân cách của tôi, mà là đòi hỏi thiết yếu của ơn gọi làm ngưòi. Tôi càng nên người hơn khi tôi sống cho tha nhân. Tôi càng trở nên phong phú hơn khi tôi trao ban...

Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta ơn gọi đích thực của con người: đó là sống trọn vẹn cho tha nhân. "Này là Người, này là con người với đầy đủ tính người". Ðó phải là ý nghĩa của lời tuyên bố của Philato khi ông cho trình diện trước đám đông một Chúa Giêsu với tấm thân không còn hình tượng của con người nữa và nói: "Này là người...". Con người chỉ thể hiện được trọn vẹn tính người khi con người tiêu hao hoàn toàn vì người khác, khi con người sống hoàn toàn cho người khác...

Ðó là định luật của Tình Yêu mà Chúa Giê su đã mạc khải cho chúng ta: Ai đi tìm mạng sống mình, người đó sẽ mất. Ai mất mạng sống mình, người đó sẽ tìm gặp lại.


Trích sách Lẽ Sống

THÔNG BÁO CÁC BỔ NHIỆM MỚI

Thông Báo Của Phòng Báo Chí Tòa Thánh
về các bổ nhiệm mới tại Việt Nam

VietCatholic News (13 May 2010 06:55)

Hôm nay 13/5/2010, Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã nhận đơn từ chức của Đức Tổng Giám Mục Hà Nội Giuse Ngô Quang Kiệt vì lý do sức khoẻ (chiếu theo khoản số 401 triệt 2 của Bộ Giáo Luật), và của Đức Giám Mục Vinh Phaolô Maria Cao Đình Thuyên, 83 tuổi, vì lý do tuổi tác (khoản số 401 triệt 1).

Vị Tổng Giám Mục mới của Hà Nội là Đức Tổng Giám Mục Phó Phêrô Nguyễn Văn Nhơn.

Tại Vinh, cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp thuộc dòng Đa Minh đã được bổ nhiệm Giám Mục. Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, OP sinh tại Lang Anh, Nghệ An, thuộc giáo phận Vinh, ngày 2/1/1945. Ngài đã theo học tại Học Viện Dòng Đa Minh và Đại Học Quốc Gia Sàigòn và đạt được bằng cử nhân Triết Đông Phương tại đây vào năm 1970. Ngài lấy bằng Tiến Sĩ Triết Học tại Đại Học Fribourg ở Thụy Sĩ (1978), và Tiến Sĩ Thần Học Luân Lý tại Phân Khoa Thần Học São Paulo (Ba Tây). Ngài đã được thụ phong linh mục ngày 8/8/1972.

Sau khi được thụ phong, ngài đã giữ các chức vụ sau: giáo sư tại Phân Khoa Thần Học Lima (Peru), trong thập niên 1980, và tại Giáo Hoàng Học Viện Thánh Tôma Aquinas tại Rôma (1997-2003), chịu trách nhiệm đào tạo tri thức cho Tỉnh Dòng Đa Minh Việt Nam (2003-2007), linh hướng cho Tỉnh Dòng (2003-2007).

Từ năm 2000, ngài giảng dạy môn Luân Lý và Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội tại các Học Viện Đa Minh và các cơ sở tôn giáo và khoa học tôn giáo khác nhau tại Đại Học Quốc Gia thành phố Hồ Chí Minh.

Phòng Báo Chí Tòa Thánh
(nguồn : vietcatholic.net)

LỜI TỪ BIỆT

Lời từ biệt của đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
gửi cộng đồng dân Chúa TGP Hà Nội

VietCatholic News (13 May 2010 10:28)

xin mời bấm chuột vào hình để xem cho rõ
(nguồn : vietcatholic.net)

ĐTGM GIUSE NGÔ QUANG KIỆT TIẾP TỤC ĐI CHỮA BỆNH

Thông Báo: Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt đã lên đường đi chữa bệnh ở ngoại quốc

VietCatholic News (12 May 2010 13:15) Thông Báo Về Đức Tổng Giám Mục Giuse

VĂN PHÒNG

TÒA TỔNG GIÁM MỤC HÀ NỘI

40 Phố Nhà Chung – Hà Nội

----------+----------

THÔNG BÁO

Ngày 12 tháng 5 năm 2010

Kính gửi: Cộng Đồng Dân Chúa

Tổng Giáo Phận Hà Nội

Văn Phòng Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội xin trân trọng thông báo: gần đây sức khỏe của Đức Tổng Giám Mục Giuse lại suy yếu. Vì vậy ngài đã lên đường để tiếp tục chương trình chữa bệnh và dưỡng bệnh ở ngoại quốc.

Xin toàn thể gia đình giáo phận hãy cầu nguyện cho Đức Tổng Giám Mục Giuse của chúng ta mau chóng bình phục sức khỏe.

Trân trọng,

Linh mục Alphongsô Phạm Hùng
Chánh Văn Phòng TGM. Hà Nội

(nguồn : vietcatholic.net)

TÂN GIÁM MỤC

Đức Thánh Cha bổ nhiệm
cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp
làm Tân Giám mục Giáo phận Vinh

GPVO – Hôm nay, 13-5-2010, Phòng Báo Chí Tòa Thánh loan báo: Đức Thánh Cha đã nhận đơn từ nhiệm của Đức cha Phaolô Maria Cao Đình Thuyên, Giám mục Giáo phận Vinh, chiếu theo khoản Giáo luật số 401 triệt 2.

Đồng thời, Đức Thánh Cha đã bổ nhiệm linh mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp, dòng Đa Minh, làm Tân Giám mục Giáo phận Vinh.

Trích lược tiểu sử
Đức Giám Mục Tân Cử
PHAOLÔ NGUYỄN THÁI HỢP, OP

Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, OP, sinh ngày 01-02-1945 tại giáo xứ Làng Anh (Nghi Phong, Nghi Lộc, Nghệ An).

Ngày 15-8-1964: vào Tập viện Dòng Đa Minh tại Vũng Tàu

Từ 1965 - 1972: Học triết học và thần học tại Học viện Đa Minh Vũng Tàu và Thủ Đức

Từ 1968 - 1971: Học tại Đại học Văn khoa Sài Gòn. Tốt nghiệp Cử nhân Triết học Đông Phương

Ngày 8-8-1972: Thụ phong linh mục tại Sài Gòn

Từ 1972-1978: Tiếp tục theo học tại Đại học Fribourg (Thụy Sĩ) và tốt nghiệp Tiến sĩ Triết học Tây phương

Từ 1978-1979: Học chính trị kinh doanh tại Đại học Genève, Thụy sĩ

Từ 1981-1986: Giáo sư tại Phân khoa Thần học Lima, Péru

Từ 1984-1991: Giáo sư và Giám đốc Học vụ của Học Viện Thần học Gioan XXIII, Lima, Péru

Từ 1989-1994: Trung tâm nghiên cứu Bartolomé de Las Casas, Lima, Péru

Năm 1994: Tốt nghiệp Tiến sĩ Thần học Luân lý tại Phân khoa Thần học Đức Mẹ Lên Trời, São Paulo, Brazil

Từ 1996-2004: Giáo sư tại Phân khoa Xã hội thuộc Đại Học Giáo Hoàng Thánh Tôma Aquinô, Roma

Từ 2004-2007: Giám Đốc Học vụ của Tỉnh Dòng Đa Minh Việt Nam

Từ 2004: Thành viên của Ủy ban Giáo lý Đức tin thuộc HĐGM Việt Nam

Từ 2006: Thành viên của Ủy ban Từ vựng Công giáo

Chủ nhiệm Câu lạc bộ Phaolô Nguyễn Văn Bình. Câu lạc bộ được thành lập để gặp gỡ, trao đổi, thảo luận và học hỏi của những người Công giáo dấn thân phục vụ Giáo Hội và xã hội Việt Nam hôm nay theo tinh thần Phúc Âm

Được bổ nhiệm làm Giám mục Giáo phận Vinh ngày 13 tháng 5 năm 2010.

(Nguồn: giaophanvinh.net)
Ban Truyền thông - XH Giáo phận Vinh
(nguồn : hdgmvietnam.org)

TỪ NHIỆM VÀ KẾ NHIỆM

Từ nhiệm và kế nhiệm Tổng Giám mục
Tổng giáo phận Hà Nội (Việt Nam)


Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã chấp thuận đơn từ nhiệm Tổng Giám mục Tổng giáo phận Hà Nội (Việt Nam), do Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt đệ trình, theo khoản 401 § 2 của Bộ Giáo luật.


Kế nhiệm là Đức Tổng Giám Mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Tổng Giám mục Phó của cùng Tổng giáo phận.


(Nguồn: RINUNCE E NOMINE, 13.05.2010)
Phòng Báo chí Tòa Thánh

(nguồn : hdgmvietnam.org)

Thứ Năm, 13 tháng 5, 2010

LẼ SỐNG 13.5

13 Tháng Năm
Ngày Của Mẹ

Ngày Chúa Nhật thứ hai trong tháng năm, tại nhiều nước trên thế giới, được gọi là ngày của Mẹ, ngày dành riêng để tỏ lòng báo hiếu đối với Mẹ...

Sáng kiến dành ngày Chúa Nhật thứ hai của tháng năm làm ngày của mẹ được gán cho một thiếu nữ người Hoa Kỳ tên là Anna M.Jarvis qua đời khoảng năm 1948. Mẹ của cô qua đời tháng năm năm 1905. Trong những năm kế tiếp, cô thường tổ chức giỗ mẹ một cách trọng thể như mời bạn bè đến cầu nguyện tại gia đình. Cô viết thư gửi tới các nhân vật quan trọng trong nước Mỹ để xin lập một ngày tưởng nhớ các bà Mẹ. Tiểu bang nơi cô đang sống đã chấp nhận đề nghị năm 1913. Và ngày 10 tháng 5 ấy, quốc hội Hoa Kỳ cũng thông qua đề nghị nhận ngày Chúa Nhật thứ hai trong tháng 5 như một ngày để ghi ơn các bà mẹ. Tổng thống Wilson của Hoa Kỳ đã công bố quyết định này ngày 09/5/1914. Tục lệ này đã lan rộng sang nhiều quốc gia trên thế giới... Trong ngày nhớ mẹ, người con thường cài trên áo một bông hoa cẩm chướng màu trắng nếu mẹ đã quá cố và màu hồng dành cho những ai còn mẹ.

Trong các tước hiệu Giáo Hội dùng để gọi Ðức Maria, có lẽ xứng hợp với tâm tình con người hơn cả vẫn là tước hiệu Mẹ. Chúng ta có thể gọi Ðức Maria là Mẹ với tất cả tâm tình trìu mến như khi chúng ta gọi người mẹ của chúng ta. Do lời trăn trối của chính Chúa Giêsu con Mẹ, Mẹ đã trở thành Mẹ của Giáo Hội. Qua muôn thế hệ, Mẹ không ngừng cưu mang, sinh ra và dưỡng dục các tín hữu trong Ðức tin.

Niềm hạnh phúc của bất cứ người mẹ nào vẫn là thấy con mình được nên người. Mẹ Maria chăm chú theo dõi và lo lắng cho từng người chúng ta. Niềm vui của Mẹ chính là thấy mỗi người chúng ta được lớn lên theo hình ảnh của Chúa Giêsu con Mẹ...

Chúng ta mang đến cho Mẹ những bó hoa trong suốt tháng 5, tháng 10 và trong từng lời Kinh dâng lên Mẹ. Nhưng có lẽ Mẹ sẽ sung sướng hơn mỗi lần nhìn thấy sự trưởng thành nơi chúng ta. Mỗi lần chúng ta lớn lên trong ân phúc, trong bác ái yêu thương, trong hy vọng tin yêu: đó là những bó hoa tốt đẹp nhất mà chúng ta dâng lên Mẹ...


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Tư, 12 tháng 5, 2010

LẼ SỐNG 12.5

12 Tháng Năm
Danh Dự Cho Ai

Văn sĩ Pháp Alexandre Piron qua đời năm 1773, thường có thói quen đi dạo trong khu rừng Boulogne giữa thủ đô Paris. Một ngày nọ, ông ngồi nghỉ trên một ghế đá tựa vào một bức tường.

Chỉ một lát sau, ông ngạc nhiên vô cùng, vì trong đám đông những người đang đi dạo trong khu rừng, một vài người đến gần ông, ngả nón chào. Cũng có một vài người bái cả gối nữa. Nhà văn mỉm cười đáp lễ cảm tình mà khách qua lại dành cho ông. Ông không ngờ rằng ông được nhiều người mến mộ đến như thế. Ông mong sao một số bạn bè trong văn giới chứng kiến được cảnh tượng này để thấy được vinh quang mà ông đã đạt được...

Nhà văn đang say với bã vinh hoa thì chợt trong đám người đang bái chào ông, một lão bà để lộ một thái độ khác thường. Cũng giống như mọi người khác, bà lão cúi chào, rồi tiến đến gần ghế đá. Bà thì thầm nói trong miệng mà nhà văn không hiểu được, rồi ngước mắt nhìn lên cao. Ngạc nhiên trước cử chỉ khác thường của bà lão, nhà văn cũng đưa mắt nhìn lên cao phía trên tường. Lúc bấy giờ ông mới khám phá ra rằng trên đầu ông có một tượng thánh giá... Thì ra, những người đi dạo trong khu rừng Boulogne này dừng lại không phải để tỏ lòng mộ mến đối với ông, mà chính là tỏ lòng cung kính đối với Chúa Giêsu trên thập giá.

Hổ thẹn vì sự khám phá ấy, Alexandre Piron đứng dậy bỏ đi nơi khác.

Sở dĩ Chúa Giêsu đã có thái độ gay gắt đối với những người biệt phái giả hình, là bởi vì họ muốn chiếm đoạt chính Vinh dự của Thiên Chúa. Họ cũng giống như văn sĩ Alexandre Piron trong câu chuyện trên đây: người ta đến bái chào Chúa Giêsu trên thập giá, nhưng ông lại muốn dành cho mình vinh dự ấy. Những người biệt phái giả hình cũng giống như con lừa mà Chúa Giêsu dùng để cưỡi vào thành Giêrusalem. Giữa những tiếng reo hò dân chúng dành cho Chúa Giêsu, con lừa cứ nghĩ rằng nó là một anh hùng oai phong lẫm liệt...

Khao khát danh vọng, quyền bính là đam mê chung của mọi người. Ai cũng thích xuất hiện trước công chúng, ai cũng thích được người đời ca tụng, ai cũng thích được phục vụ. Một cách nào đó, người tham vọng không những dùng người khác như bàn đạp, mà còn tước đoạt chính Vinh quang của Chúa...

Chúa Giêsu là con người đã sống trọn vẹn cho tha nhân và do đó cũng quy mọi vinh dự về cho Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã nói với chúng ta rằng: là Thiên Chúa, Ngài đã không đòi cho được đồng hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hủy bỏ mình đi để mặc lấy thân phận con người và vâng phục cho đến chết.

Chúa Giêsu đã vạch cho chúng ta con đường được sống trọn vẹn ơn gọi làm người: đó là sống cho Thiên Chúa. Chỉ khi nào con người sống cho Thiên Chúa, thuộc về Thiên Chúa trong tất cả mọi sự, con người mới đạt được chính cùng đích của mình. Sống cho Thiên Chúa là luôn tìm thấy Thánh ý của Ngài, là hoạt động cho vinh quang của Ngài, là trở thành khí cụ trong bàn tay của Ngài...


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Ba, 11 tháng 5, 2010

LẼ SỐNG 11.5

11 Tháng Năm
Cơn Thịnh Nộ Của Các Thánh

Trong tác phẩm có tựa đề "Quyển Phúc Âm thứ 5", tác giả người Ý là ông Pomilio có tưởng tượng một câu chuyện như sau: Ngày kia, các thánh trên Thiên Ðàng không còn chịu đựng nổi những xúc phạm của con người đối với Thiên Chúa nữa, cho nên Ngài mới họp công nghị để tìm cách chặn đứng tội lỗi của nhân loại...

Sau không biết bao nhiêu buổi họp, cuối cùng các thánh mới đồng thanh biểu quyết rằng việc Con Thiên Chúa chịu chết trên thập giá vẫn chưa đủ để cứu rỗi con người. Do đó, cần phải dùng đến sức mạnh may ra mới trừng trị và thuyết phục được loài người.

Các Ngài họp lại thành một đạo binh hùng mạnh và xâm nhập vào trái đất. Chỉ trong nháy mắt, đạo binh các thánh đã chinh phục được thế giới. Các Ngài giao việc cai trị trái đất cho một số người công chính còn sót lại giữa loài người. Còn tất cả những kẻ gian ác, tội lỗi, các ngài tập trung lại trong một thung lũng lớn. Tại đây, các ngài dựng lên những dàn hỏa thiêu vĩ đại để tiêu diệt tất cả những người tội lỗi. Các ngài tin chắc rằng sau cuộc thanh lọc này, dòng giống con người trên mặt đất sẽ chỉ có những người công chính...

Khi mọi sự đã sẵn sàng để tiến hành cuộc tiêu diệt, thì giữa đám người tội lỗi, các thánh bỗng thấy một người đang vác thập giá. Hắn đang ra hiệu cho những người khác đến giúp dỡ hắn... Nhìn thấy cảnh tượng ấy, các thánh càng bực tức hơn nữa. Tại sao một người tội lỗi lại bị xử theo hình phạt chỉ được dành riêng cho Con Thiên Chúa mà thôi? Nghĩ như thế, cho nên các thánh mới triệu kẻ vác thập giá đến, trói chân tay hắn lại và giải đến trước mặt thánh Phêrô để xét xử.

Vừa thoáng nhìn qua kẻ vác thập giá, vị thủ lãnh các tông đồ đã nhận ra ngay Thầy mình. Các thánh ngỡ ngàng không ít, khi được thánh Phêrô tiết lộ rằng Con Thiên Chúa đang lẫn lộn giữa những người tội lỗi. Các ngài mới nhớ lại lời của Ngài: "Con Người không đến để cứu thoát những người công chính mà chính là những người tội lỗi". Chúa Giêsu cũng nói với các thánh rằng Ngài đã quyết định chết một lần nữa cho các tội nhân, bởi vì trên trần gian, không có một người nào có thể cứu thoát kẻ có tội khỏi cơn thịnh nộ của các thánh.

Chúng ta dễ rơi vào hai thái cức trái nghịch nhau: thái độ của những người biệt phái và thái độ của Giuda, kẻ bán nộp Chúa.

Thái độ của những người biệt phái được Chúa Giêsu phác họa qua hình ảnh của một người tự cao tự đại vào Ðền Thờ cầu nguyện. Người này kể ra bao nhiêu công trạng của mình và nhìn một cách khinh bỉ về người thu thuế đang nép mình ở phía cuối Ðền Thờ. Thái độ ấy tiêu biểu ấy cho chính cái nhìn mà đôi khi chúng ta cũng có đối với người khác. Chúng ta hãnh diện về đời sống đạo đức của chúng ta và kết án những yếu hèn, thiếu sót của những người xung quanh...

Ðối nghịch với thái độ kiêu ngạo của người biệt phái là thái độ thất vọng của Giuda. Sau khi đã bán nộp Chúa, Giuda mới nhận ra lỗi lầm của mình. Ông không còn tin tưởng ở lòng Nhân Từ của một Thiên Chúa có thể tha thứ tất cả tội lỗi của ông và có thể mang lại cho cơ may để sống tốt đẹp hơn.

Tựu trung, cả hai thái độ đều có chung một mẫu số: đó là đóng khung trong chính bản thân để khước từ mọi ân sủng của Chúa.

Qua cuộc sống của mình, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đặt tất cả tin tưởng, phó thác vào Tình yêu của Thiên Chúa. Dù tội lỗi chúng ta có ngập tràn, Tình yêu của Thiên Chúa vẫn luôn có sức xóa sạch tất cả. Tình yêu của Ngài mạnh hơn cả hỏa ngục và sự chết... Qua cách cư xử của Chúa Giêsu với tội nhân, chúng ta cũng được mời gọi để nên trọn lành như Cha chúng ta trên Trời, đó là luôn biết tha thứ và cảm thông đối với những bất toàn, yếu đuối và tội lỗi của con người...


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Hai, 10 tháng 5, 2010

LẼ SỐNG 10.5

10 Tháng Năm
Bàn Tay Phải Của Chúa Giêsu

Có rất nhiều giai thoại kể về những tượng thánh giá cổ xưa... Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha, có một tượng thánh giá cổ rất đặc biệt. Cánh tay trái của Chúa Giêsu vẫn còn đóng vào gỗ giá, nhưng cánh tay mặt thì rời ra và đưa đến phía trước trong tư thế ban phép lành.

Người Tây Ban Nha kể về nguồn gốc của tượng thánh giá này như sau: Một hôm có một tội nhân đến xưng tội với vị linh mục chính xứ ngay dưới cây thánh giá này. Như thường lệ, mỗi khi giải tội cho một tội nhân có quá nhiều tội nặng, vị linh mục này thường tỏ ra rất nghiêm khắc. Ngài ra việc đền tội nặng cũng như ngăm đe nhiều điều.

Tội nhân ra về, lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng tính nào tật ấy, không bao lâu, người đó sa ngã lại. Lần này, sau khi anh xưng thú tội lỗi, vị linh mục lại đe dọa như sau: "Ðây là lần cuối cùng tôi giải tội cho ông".

Nhiều tháng trôi qua, tội nhân lại đến quỳ dưới chân linh mục cũng bên dưới cây thánh giá và lại xin ơn tha thứ một lần nữa. Nhưng lần này, vị linh mục đã dứt khoát. Ngài trả lời: "Ông đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể ban phép giải tội cho ông nữa".

Nhưng lạ lùng thay, khi vị linh mục vừa khước từ tội nhân, thì ông bỗng nghe một tiếng thì thầm từ bên thánh giá. Bàn tay phải của Chúa Giêsu bỗng được rút ra khỏi thánh giá và ban phép lành cho hối nhân. Và vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy như sau: "Chính ta là người đã đổ máu ra cho người này, chứ không phải ngươi".

Từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu cứ ở mãi trong tư thế ấy, như không ngừng mời gọi con người đến để ban ơn tha thứ...

Kinh Thánh thuật lại rằng trong cuộc hành trình tiến về đất hứa, khi đi qua giữa sa mạc, dân Israel đã bị rắn cắn. Môi sen đã sai đúc một con rắn đồng và treo lên một ngọn cây để tất cả những ai bị rắn cắn, nhìn vào con rắn đồng ấy đều được chữa lành...

Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá của Ngài.

Nhìn lên thập giá của Ngài để thấy được án phạt của tội lỗi.

Nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa.

Phải, bên kia sự độc ác của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.

Nhìn lên thập giá Chúa không phải để thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi, mà trái lại để cảm mến được hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn được phấn khởi, tin yêu hơn...

Nhìn lên thập giá Chúa để cảm mến được ơn tha thứ của Ngài, chúng ta cũng được mời gọi để cảm thông, để tha thứ hơn đối với người anh em của chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta còn được mời để gọi tha thứ nhiều hơn. Còn tha thứ nhiều hơn, chúng ta còn dễ cảm mến được ơn tha thứ của Chúa...


Trích sách Lẽ Sống

Chủ Nhật, 9 tháng 5, 2010

LẼ SỐNG 09.5

09 Tháng Năm
Hòn Ðá Ném Ði

Văn hào Nga Leon Tonstoi có kể câu chuyện ngụ ngôn như sau: Có một người hành khất nọ đến trước cửa nhà của một người giàu có để xin bố thí. Một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi nơi người giàu có. Nhưng, mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Ðến một lúc không còn chịu nổi những lời van xin của người hành khất, thay vì bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ.

Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: "Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà người sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi".

Ði đâu, người hành khất cũng mang theo hòn đá ấy. Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu mang sự báo thù.

Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu vào tù ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay ông không rời bỏ hòn đá mà người giàu đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch nỗi nhục hằng đeo đẳng bên ông. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tụy đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: "Tại sao ta lại phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người này, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ như ta".

Tha thứ là điều khó khăn nhất nhưng cũng là điều cao cả nhất mà Kitô Giáo đã cống hiến cho con người.

Trao ban tiền của, trao ban thì giờ, trao ban chính mạng sống mình là điềuxem ra dễ làm hơn trao ban lòng tha thứ. Tha thứ là tuyệt đỉnh của yêu thương bởi vì tha thứ là yêu thương chính kẻ thù của mình. Của lễ hy sinh trên thập giá của Chúa Giêsu đã nên trọn khi Ngài thưa với Chúa Cha: "Lạy Cha, xin tha thứ cho chúng, vì chúng lầm không biết việc chúng làm".

Tha thứ là của lễ đẹp lòng Chúa nhất, bởi vì qua đó, con người được nên giống Thiên Chúa hơn cả. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta là Thiên Chúa tha thứ và tha thứ không ngừng. Và chỉ có một Thiên Chúa tha thứ không ngừng ấy mới có thể đòi hỏi con người phải tha thứ không ngừng...

Tha thứ là nét cao đẹp nhất của lòng người, bởi vì càng tha thứ, con người càng nên giống Thiên Chúa.


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Bảy, 8 tháng 5, 2010

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT VI PHỤC SINH - NĂM C (Ga 14, 23-29)

LẼ SỐNG 08.5

08 Tháng Năm
Chữ Thập Ðỏ

Buổi sáng ngày 24/6/1859, Henri Dunant, một thương gia trẻ tuổi người Thụy Sĩ, thức giấc với nhiều bận tâm. Từ mấy ngày nay, anh đang trọ tại một lữ quán nghèo thuộc miền Castiglione delle Stiviere bên Italia. Anh đến Italia với một công tác rất táo bạo, đó là gặp cho kỳ được Hoàng Ðế Napoleon đệ tam của nước Pháp để xin cấp cho anh giấy phép được thiết lập một số nhà máy xay lúa tại Algerie, lúc bấy giờ đang là thuộc địa nước Pháp...

Từ trong quán trọ nhìn ra, anh thấy từng đoàn binh sĩ Pháp di chuyển về cánh đồng Solferino... Và những gì phải xảy ra đã xảy ra... 300 ngàn con người từ hai phía đã giáp chiến. Tiếng súng nổ, tiếng người la hét giãy giụa. Khi màn đêm xuống, tiếng súng thưa dần, người ta chỉ còn nghe thấy tiêng rên la của các thương binh từ hai phía... Giờ phút này Henri Dunant không còn nghĩ gì đến dự án thiết lập các nhà máy xay lúa tại Algerie nữa. Thay vào đó, nỗi oán ghét chiến tranh và sự cảm thông với các thương binh mỗi lúc một xâm chiếm tâm hồn anh, nhất là khi người ta bắt đầu di chuyển các thương binh vào các làng mạc...

Một người lính Pháp vừa lê lết vừa xin nước uống. Nguyên một bàn chân đã bị cắt đi khỏi thân thể. Dunant dìu anh vào quán trọ. Cùng với các y sĩ của các phe đang tham chiến, Henri Dunant đã động viên tất cả dân làng để mang thực phẩm và thuốc men đến cho các thương binh, bất kể họ thuộc bên nào.

Trong những ngày ấy, thay cho dự án kinh doanh, Henri Dunant đã dành thời giờ để viết lại hồi ký về trận Solferino. Anh mô tả lại tất cả những gì anh đã chứng kiến và kêu gọi tất cả những người thiện chí trên thế giới hãy giúp anh để chấm dứt thảm cảnh ấy. Không mấy chốc, cuốn sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và được gửi đến các Chính Phủ trên thế giới. Ngay tức khắc, một tổ chức nhân đạo tại Génève đã thỏa thuận trợ giúp cho công tác của Dunant. Anh đi khắp các thủ đô Âu Châu để thuyết phục các nhà cầm quyền ký vào một quy ước nhìn nhận quyền bất khả xâm phạm của các thương binh, các y tá và tất cả những ai phục vụ trong ngành quân y...

Ngày 26/10/1963, đại diện của 16 nước đã gặp nhau tại Génève. Tổ chức do Henri Dunant khai sinh được chính thức chào đời ngày hôm đó. Người ta gọi tổ chức này là Hội Chữ Thập Ðỏ, do biểu tượng của một chữ thập đỏ in trên nền trắng... Dấu hiệu này đã được treo trên các lều, các nhà cửa thuộc về phong trào này... Ðó là món quà lớn nhất mà Henri Dunant đã tặng cho nhân loại.

Trong tập hồi ký trận Solferino, Henri Dunant đã ghi lại như sau: Có nhiều binh sĩ Áo dưới quyền chỉ huy của Hoàng Ðế Prancois Joseph bị bắt làm tù binh. Henri Dunant đã săn sóc họ tận tình. Thấy thế, một bà cụ già trong làng đã phản đối vì cho rằng người Áo là kẻ thù. Henri Dunant đã nói với bà cụ già như sau: "Trong sự đau khổ, không còn khác biệt giữa bạn và thù nữa.. Tất cả chúng ta đều là anh em với nhau".

Nhìn mọi người như anh em của mình, một cái nhìn như thế hẳn phải xuất phát từ một niềm tin rất sâu sắc...

Năm 1901, lần đầu tiên, giải thưởng Nobel hòa bình đã được trao tặng và người được danh dự ấy chính là vị sáng lập ra Hội Chữ Thập Ðỏ. Mười năm sau, con người đã trao tặng cho thế giới một món quà cao quý như thế đã qua đời trong một bệnh viện dành cho những người hành khất nghèo nàn bên Thụy Sĩ. Gia tài của ông để lại là vài cuốn sách, năm ba lá thư và một di chúc thiêng liêng như sau: "Hoặc tôi là một môn đệ của Ðức Kitô giống như các tín hữu của những thế kỷ đầu hoặc tôi không là gì hết".

Ðặc biệt của các tín hữu sơ khai và cũng là lý tưởng của Henri Dunant chính là lòng mến, lòng mến đã biến họ nhận ra mọi người như là anh em, con cùng một Cha trên Trời... Mỗi người Kitô chúng ta cũng có thể lập lại lời di chúc của vị sáng lập Hội Chữ Thập Ðỏ: "Hoặc tôi tôn trọng và yêu thương tha nhân hoặc tôi không là gì hết".


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Sáu, 7 tháng 5, 2010

THƯ CỦA ĐỨC GIÁM MỤC ĐÀ NẴNG

Thư ĐGM GP Đà Nẵng gửi Cộng Đồng Dân Chúa Giáo phận, cách riêng cùng Anh Chị Em Giáo dân Giáo xứ Cồn Dầu.

VietCatholic News (06 May 2010 14:27)
THƯ MỤC TỬ CỦA ĐỨC GIÁM MỤC GIÁO PHẬN ĐÀ NẴNG
Số 4/2010

Kính gửi Cộng Đồng Dân Chúa Giáo phận, cách riêng cùng Anh Chị Em Giáo dân Giáo xứ Cồn Dầu.

Anh Chị Em thân mến!

Trong thời gian gần đây, chúng ta được nghe nhiều câu chuyện thương tâm diễn ra đó đây, những xô xát giữa dân chúng với lực lượng an ninh của chính quyền. Nước mắt và cả máu đã đổ ra ngay trong thời bình. Thật đau đớn, xót xa… Lần này, sự việc lại xảy ra ngay trên địa bàn Giáo phận Đà Nẵng của chúng ta, tại Giáo xứ Cồn Dầu, với hình ảnh làm đau lòng mọi người, trong cuộc cũng như ngoài cuộc. Lễ nghi an táng vốn rất thiêng liêng đối với người Việt Nam, thế mà quan tài của một bà cụ 93 tuổi trở thành đối tượng tranh chấp, xâu xé, hành hung, bắt bớ… Ai trong chúng ta cũng thổn thức và mủi lòng cho người chết cũng như cho người sống.

Trong 48 giờ qua, thông tin từ Giáo xứ Cồn Dầu chắc chắn đã lan rộng đến nhiều người bằng nhiều phương tiện khác nhau. Chúng tôi đã cố gắng phối kiểm thông tin khách quan từ nhiều phía, gặp gỡ chính quyền Thành phố, thăm viếng Giáo xứ Cồn Dầu, nhất là gia đình Cụ Bà Maria Tân mới qua đời, và với tâm tình mục tử, xin gửi đến Cộng Đoàn Dân Chúa Giáo phận, cách riêng cùng Anh Chị Em giáo dân Cồn Dầu và những người quan tâm bức thư này, như một thông tin và chia sẻ.

Tình hình tại Cồn Dầu vốn căng thẳng đặc biệt từ đầu năm đến nay, khi Thành phố quyết tâm thực hiện dự án Khu sinh thái Hòa Xuân, thuộc Quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng, bên kia bờ sông Hàn về hướng Nam, ngăn đôi thành phố. Chính quyền Thành phố thu hồi ruộng đất, di dời và qui hoạch lại dân cư của 5 thôn thuần nông trong phường để thực hiện dự án này. Nhưng dự án đã gặp sự chống đối mạnh mẽ của đa số người dân thôn Cồn Dầu, một Giáo xứ công giáo gần như toàn tòng, không đồng thuận với chính sách giải tỏa đền bù, mà họ cho rằng làm đảo lộn cuộc sống vốn bình yên và chịu nhiều thiệt thòi mất mát. Cũng trong dự án này, chính quyền địa phương đã phát lệnh cấm không cho chôn xác tươi trong khu vực dự án, cấp đất nơi khác để di dời tất cả mọi nghĩa trang trong khu vực.

Câu chuyện thương tâm xảy ra trong dịp đám tang của Bà Maria Tân, 93 tuổi, là giáo dân Giáo xứ Cồn Dầu. Bà Cụ qua đời vào sáng sớm ngày 01/5/2010 và đến sáng ngày 04/5/2010 thì được an táng. Từ bao đời nay, người giáo dân Giáo xứ Cồn Dầu khi qua đời, đều được an táng tại nghĩa địa riêng của Giáo xứ, được chăm chút rất công phu kỹ lưỡng, cách nhà thờ xứ khoảng 1.000 mét, cũng nằm trong khu vực dự án này. Đa số giáo dân Cồn Dầu quyết tâm bảo vệ nghĩa địa, và động viên gia đình cứ chôn xác bà cụ tại đây. Theo lời kể của Cha Quản xứ Emmanuel Nguyễn Tấn Lục, khi thấy không khí bất ổn và có thể gây xô xát căng thẳng, Ngài đã nhiều lần đề nghị gia đình và mọi người chọn phương án khác và nơi khác để an táng bà cụ. Ngài đề nghị, sau Thánh Lễ an táng, có thể đưa bà ra nghĩa trang “viếng tiên tổ” rồi đưa đi chôn nơi khác, cũng hợp tình hợp lý và thuận đường.

Sáng Thứ Ba, Cha Quản xứ dâng Thánh Lễ an táng cho Bà Cụ lúc 5g00 sáng tại Nhà thờ Cồn Dầu, rồi đi tĩnh tâm tại Tòa Giám mục. Ngài tin tưởng rằng, chính gia đình sẽ quyết định chôn cất bà cụ cách nào bảo đảm nhất, vì không ai muốn nguời thân của mình gặp rắc rối trong khi an táng, nhất là việc đào huyệt tại nghĩa trang Giáo xứ cũng không thể thực hiện được vì sự ngăn trở bằng mọi cách của chính quyền. Ngài an tâm vắng nhà và tin rằng mọi việc sẽ ổn thỏa. Tòa Giám mục cũng được Ngài báo cáo như thế, nên an tâm tổ chức ngày tĩnh tâm cho các linh mục.

Nhưng sự việc sau đó đã không diễn ra như mọi người tin tưởng. Sau Thánh Lễ, khi trên 500 giáo dân đã cùng gia đình đưa quan tài bà cụ ra nghĩa trang, ca kinh và hàng lối trật tự theo đúng lễ nghi tôn giáo, đã gặp ngay sự ngăn cản hùng hậu của các lực lượng an ninh Thành phố chực sẵn, không cho đoàn người và quan tài tiếp cận khu nghĩa trang. Tòa Giám mục hay tin, nhưng cũng được biết thêm rằng mọi việc diễn ra trong trật tự, nên vẫn tin rằng sau khi “viếng tổ tiên” trong chốc lát, dân chúng sẽ giải tán và gia đình đưa quan tài bà cụ đi chôn nơi khác, hoặc hỏa thiêu tại lò thiêu mới của Thành phố như đã được đề nghị. Nhưng mãi đến trưa, Ông Trưởng Ban Tôn giáo và Ông Phó Chủ tịch Mặt Trận Thành phố có đến thông tin cho Tòa Giám mục về tình trạng án binh kéo dài, nắng nôi và mệt mỏi, không ai còn nhẫn nại được nữa, dù dân chúng phần đông đã giải tán, nhưng còn một số người vẫn vây lấy quan tài và quyết tâm chôn bà cụ tại đây. Tòa Giám mục đã đề nghị phía chính quyền dù thế nào cũng phải tiếp tục nhẫn nại với dân chúng và khuyến cáo không được dùng vũ lực với người dân, có thể gây hậu quả nghiêm trọng.

Nhưng đến 13g30 chiều, mọi sự không còn kiểm soát được nữa, đôi bên “hỗn chiến”, khi lực lượng an ninh đặc nhiệm của Thành phố đã dùng vũ lực mạnh nhất để trấn áp dân chúng, chiếm lấy quan tài, đưa lên xe đem đi, và bố ráp đánh đập không nương tay tất cả những ai có mặt trong khu vực. Nhiều người bị giải lên xe chở đi. Số người bị bắt giữ lên tới 59 người. Vụ việc diễn ra chớp nhoáng chưa đầy một tiếng đồng hồ. Riêng gia đình bà cụ, đã tập trung đến khu hỏa thiêu ở xã Hòa Sơn, quận Hòa Vang, để làm các thủ tục hành chánh và nghi thức tôn giáo trước khi thiêu xác bà.

Ngay tối hôm ấy, Tòa Giám mục đã liên lạc điện thoại với Ông Chủ Tịch UBND Thành phố, phản đối chính quyền đã thiếu nhẫn nại và sử dụng bạo lực với dân chúng, và đề nghị trả những người dân bị bắt giữ về gia đình. Sáng hôm sau, chúng tôi đã gặp Ông Chủ Tịch HĐND kiêm Bí thư Thành phố trong khuôn khổ một buổi họp, cũng đã bày tỏ thái độ phản đối việc dùng bạo lực đối với người dân, và đề nghị trả những người bị bắt về gia đình của họ.

Buổi chiều, chúng tôi đã trực tiếp đến thăm Giáo xứ Cồn Dầu, lắng nghe ý kiến của Cha Quản xứ và một số người dân, viếng thăm gia đình bà cụ Maria Tân. Mọi người dường như đang run rấy, thổn thức, và cũng hối tiếc, nhất là gia đình, vì không nghe theo lời khuyên của Cha Quản xứ, đã để vụ việc quá đáng tiếc xảy ra. Họ cũng cho biết, những người bị bắt đang bị ngược đãi, xin Tòa Giám mục can thiệp cho họ về. Được biết, trong số những người bị bắt giữ, mới chỉ có một số ít trường hợp được trở về gia đình, và ngành an ninh đang tiếp tục lùng bắt thêm một số người mà qua phim ảnh, họ cho rằng đã có hành vi manh động “chống lại lực lượng an ninh đang thi hành nhiệm vụ”.

Sáng nay, Tòa Giám mục tiếp tục liên lạc với Chính quyền và đề nghị được đến thăm những người đang bị giam giữ. Chính quyền cho biết hầu hết đã về nhà trong đêm hôm qua, số còn lại đang làm việc, sẽ được trả về trong ngày hôm nay. Tin mới nhận được, số còn bị giam giữ là 20 người. Chúng tôi đang tiếp tục liên lạc để có thể thăm viếng họ khi được phép.

Chúng tôi đã đến kính viếng hài cốt, cầu kinh và thắp nhang cho Bà cụ Maria Tân. Nhìn hủ tro tàn bất động để trên bàn thờ cạnh di ảnh phúc hậu của bà, chúng tôi nghĩ đã đến lúc cần phải có một sự thay đổi thật sâu rộng trong xã hội Việt Nam chúng ta hôm nay, mới có thể cải thiện mối quan hệ giữa người với người, giữa người dân với chính quyền, giữa đạo và đời, tạo hướng đi vững chắc cho các thế hệ tương lai.

Qua biến cố này, cầu nguyện và suy gẫm nhiều, tôi xin gửi đến Cộng đoàn Dân Chúa Giáo phận Đà Nẵng, cách riêng giáo dân Cồn Dầu và những người thành tâm thiện chí một đôi tâm tình.

1. Trong cuộc đấu tranh cho công lý và công bằng xã hội, Anh Chị Em giáo dân đừng nghĩ rằng các mục tử không đứng về phía mình. Các Ngài có cách thế riêng do vị trí, ơn gọi, sứ vụ và đặc sủng của các Ngài. Người mục tử có lúc đi trước, có khi đi sau, thậm chí có những hoàn cảnh phải đi giữa đàn chiên, tùy sự an nguy của đàn chiên đến từ đâu. Hãy kính trọng và lắng nghe tiếng nói của các mục tử ! Hãy biết “tôn sư trọng đạo” đúng mức như bài học vỡ lòng của mọi người dân Việt.

2. Không được nhân danh tôn giáo để đấu tranh bạo động xảy ra dưới bất cứ hình thức nào, dù mục đích của cuộc đấu tranh là chính đáng. Đây không phải chỉ là những điều cấm kỵ đối với tôn giáo, mà còn là lời cảnh báo cho những ai mưu toan lạm dụng tôn giáo để giải quyết những tranh chấp hơn thua cho gia đình, phe nhóm hay đảng phái mình.

3. Riêng đối với người Công giáo, Chúa Giêsu là tấm gương sáng ngời và Tin Mừng của Ngài vẫn là đuốc sáng cho muôn thế hệ. Bất bạo động, nhập thế, ôn hòa, đối thoại là con đường cứu độ mà Chúa Giêsu đã chọn lựa và đã hoàn tất cách vinh quang. Chúa đã ra lệnh cho các tông đồ trước tình thế căng thẳng nhất tại Vườn Cây Dầu, khi người Do Thái xông vào bắt Ngài: “Hãy xỏ gươm vào vỏ. Ai dùng gươm, sẽ chết vì gươm” (Mt 26,52). Khi bị cật vấn về mối tương quan giữa đạo và đời, Ngài đã dạy các môn đệ: “ Của Xê-da hãy trả cho Xê-da, của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa” (Mt 22,21). Chúng tôi mời gọi nhà cầm quyền Việt Nam hôm nay, hãy cùng chúng tôi chiêm nghiệm những lời này.

4. Sứ mệnh của Giáo Hội là truyền giáo. “Hãy đi và làm cho muôn dân trở nên môn đệ Thầy” (Mt 28,19). Đây phải là tiêu chí hàng đầu mang tính quyết định cho mọi hành động của người Kitô hữu. Phải có lợi cho việc truyền giáo. Phải làm cho Tin Mừng Đức Kitô được rao giảng trong mọi hoàn cảnh thuận nghịch. Phải trả lại cho Giáo Hội gương mặt trong sáng phản ảnh gương mặt Đức Kitô, người mục tử nhân lành. Hãy làm cho người khác, dẫu khi nhìn chúng ta trong những hoàn cảnh thảm thương nhất, vẫn phải thốt lên: “Đúng người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39b). Như thế, không phải chỉ là chuyện không bang giao hay bang giao sớm muộn giữa Nhà Nước Việt Nam với Tòa Thánh Vatican, nhưng là “Danh Cha Cả Sáng, Nước Cha Trị Đến”. Chưa ai thống kê, nhưng chắc chắn có hàng trăm đảng viên Cộng sản khắp nơi cho đến hôm nay, đã được rửa tội bằng nước hay bằng lửa trên chính quê hương này.

5. Và sau hết, “Hãy cầu nguyện luôn không ngừng” (1Tx 5,17). Đừng quên sức mạnh của lời cầu nguyện. Khi không cảm nhận được sức mạnh của lời cầu nguyện, chúng ta dễ dàng có khuynh hướng tìm sử dụng hoặc dựa vào những thế lực hay vũ lực, như những người không có niềm tin, không biết cầu nguyện. Lời cầu nguyện mà chúng ta không thể quên trong hoàn cảnh hôm nay, là khẩn thiết cầu xin “Chúa Thánh Thần hãy đến canh tân và đổi mới mặt đất này”.

Thưa Anh Chị Em,

Những tâm tình trên đây của chúng tôi để cùng Anh Chị Em hướng về phía trước, nhưng chúng ta không được phép dửng dưng với những thao thức và cả nỗi đau của Anh Chị Em Cồn Dầu trong những ngày này, nhất là những người bị bắt bớ, bị đánh đập, dù bất cứ vì lý do gì. Chúng ta yêu cầu chính quyền Thành phố trả tự do cho những người bị giam giữ vì liên quan đến biến cố. Tất cả chúng ta trong tình hiệp thông, cùng đồng cảm với những trăn trở của họ, đừng để nỗi sợ hãi xâm chiếm tâm hồn và cuộc sống của họ, đừng để họ mất nhuệ khí tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn cho bản thân và gia đình họ trong tương lai.

Chúng ta cũng yêu cầu chính quyền Thành phố phải quan tâm xem xét những nguyện vọng chính đáng của người dân, nhất là những người nghèo, những người yếu đuối nhất trong xã hội. Giáo Hội luôn đồng hành với người nghèo, không phải chỉ qua một vài công tác nhân đạo từ thiện, nhưng là bảo vệ và tìm cách giúp cho đời sống của họ được thăng tiến.

Chúng ta có hối tiếc bao nhiêu thì biến cố cũng đã xảy ra. Chúng ta phải trả giá quá đắt. Nhưng đây cũng là bài học cho tất cả chúng ta và cả nhà cầm quyền, vì không có kẻ thắng người thua trong “cuộc chiến” này. Trong đại gia đình Dân tộc Việt Nam hôm nay, chỉ có cùng thua hay cùng thắng mà thôi. Chỉ có tình thương mới giải quyết được những bất đồng, và lòng nhân ái mới có thể lấp đầy những hố sâu chia rẽ.

Hướng về ngày Đại Hội Hành Hương kỷ niệm 125 năm Đức Mẹ Trà Kiệu vào cuối Tháng Hoa này, chúng ta cùng hiệp ý hiệp lòng cầu xin với Mẹ như lời kinh cầu Đức Bà chúng ta vẫn thường đọc: “Đức Mẹ Chỉ Bảo Đàng Lành – Xin Cầu Cho Chúng Con”.

Đà Nẵng, ngày 06 tháng 5 Năm Thánh 2010
+ Giuse Châu Ngọc Tri
Giám Mục Giáo phận Đà Nẵng

LẼ SỐNG 07.5

07 Tháng Năm
Truyền Giáo

Một buổi tối nọ, viên sĩ quan trẻ tuổi người Pháp tên là Charles de Foucauld say mê kể cho gia đình nghe những cuộc thám hiểm của anh ở Maroc. Người chăm chú theo dõi câu chuyện của anh nhất là cô cháu bé chưa tròn 10 tuổi. Khi anh vừa chấm dứt thì cô bé đã bất thần đặt một câu hỏi như sau: "Thưa cậu, cháu đã thấy cậu làm được nhiều việc vĩ đại... Thế cậu đã làm được gì cho Thiên Chúa chưa?"

Câu hỏi ấy như một luồng điện giật khiến anh trở thành bất động. Từ bao lâu nay, chưa có người nào đã khiến anh phải suy nghĩ nhiều như thế. "Anh đã làm gì cho Thiên Chúa chưa?". Charles de Foucauld lục soát trong lương tâm của mình để chỉ thấy một lỗ hổng không đáy. Anh đã phí phạm tất cả thời giờ của anh trong những cuộc ăn chơi trụy lạc và những danh vọng phù phiếm... Mắt anh bỗng mở ra để thấy được nỗi khốn khổ, nghèo hèn của mình.

Ngày hôm sau, anh tìm đến xưng tội với một vị linh mục. Anh vào dòng khổ tu, rồi xin đến Nagiareth để sống trọn vẹn cho Chúa Giêsu.

Ngày nọ, giữa lúc đang đắm mình trong cầu nguyện, anh bỗng nghe từ căn nhà bên cạnh có tiếng than van rên rỉ của một người Hồi Giáo.

Charles de Foucauld nghĩ đến gương bác ái của Chúa Giêsu: anh có thể giam mình cầu nguyện một mình giữa lúc những người anh em của anh đang rên rỉ trong hấp hối, trong thất vọng sao?

Nghĩ thế, anh bèn quyết định đến sống giữa họ, trở thành bạn hữu của họ, nhất là những người cô đơn, lạc lõng, nghèo hèn nhất trong xã hội.

Những năm cuối cùng, Charles de Foucauld sống giữa sa mạc Sahara, chia sẻ hoàn toàn cuộc sống với những người dân nghèo. Charles de Foucauld đã chia sẻ với họ những giọt máu cuối cùng của anh: ngày đầu tháng 12 năm 1916, anh đã bị thảm sát giữa lúc đang cầu nguyện... Ngày nay, các tiểu đệ và tiểu muội Chúa Giêsu tiếp tục lý tưởng sống của anh: họ lao động và sống giữa những người nghèo hèn nhất trong xã hội... Tất cả cuộc sống và sự âm thầm hiện diện của họ là một cố gắng làm một cái gì cho Chúa.

Có những nhà truyền giáo rời bỏ quê hương để đi đến những nơi hoàn toàn xa lạ như Thánh Phanxicô Xaviê. Nhưng cũng có những nhà truyền giáo dâng cả cuộc đời hy sinh cầu nguyện và đau khổ của mình như Thánh Nữ Têrêxa Hài Ðồng Giêsu. Có những nhà truyền giáo hùng hồn giao giảng như các tông đồ, nhưng cũng có những nhà truyền giáo âm thầm hiện diện và chia sẻ với những người nghèo khổ như Charles de Foucauld.

Âm thầm hiện diện. Nhưng vẫn có thể chiếu sáng niềm tin yêu hy vọng: đó là mẫu người truyền giáo mà Giáo Hội tại Việt Nam đang cần hơn bao giờ hết. Những cuộc sống tử tế, hy sinh phục vụ, quên mình... vẫn là những lời rao giảng hùng hồn hơn bao giờ hết.


Trích sách Lẽ Sống