Thứ Ba, 5 tháng 10, 2021

CÂU CHUYỆN NGƯỜI SAMARI NHÂN HẬU NƠI BỆNH VIỆN DÃ CHIẾN

CÂU CHUYỆN NGƯỜI SAMARI NHÂN HẬU
NƠI BỆNH VIỆN DÃ CHIẾN


TGPSG -- Từ những ngày Sài Gòn bắt đầu bùng phát dịch bệnh và đặc biệt hơn là tham gia thiện nguyện nơi bệnh viện dã chiến. Một trong những câu chuyện tôi đọc lại nhiều nhất là dụ ngôn người Samari nhân hậu trong Tin Mừng Luca. Hơn thế nữa, tôi cứ suy đi nghĩ lại lời của đức thánh cha Phan-xi-cô: “Mỗi ngày, chúng ta phải quyết định trở thành người Sa-ma-ri-ta-nô nhân hậu hay thành những người vô cảm thờ ơ. Và nếu chúng ta chịu nhìn vào lịch sử cuộc sống của chính mình và của toàn thế giới, tất cả chúng ta đều giống, hay từng giống, mỗi nhân vật trong câu chuyện dụ ngôn. Tất cả chúng ta đều có trong mình một điều gì đó của người đàn ông bị thương, một điều gì đó của tên cướp, một điều gì đó của những người qua đường, và một điều gì đó của người Sa-ma-ri-ta-nô nhân hậu”(1). Khi mới tới bệnh viện, tôi nghĩ rằng những bệnh nhân ở đây là những người đang bị tổn thương, những nhân viên y tế và thiện nguyện viên như là những người sa-ma-ri nhân hậu; còn lại một số khác là những khách qua đường. Nhưng qua những người tôi gặp, tôi nhận ra rằng hầu như trong mỗi con người đều có trong bản thân ba nhân vật của dụ ngôn.

Tôi gặp một chị lao công đang đi làm việc tại bệnh viện dã chiến, lúc vào làm đơn giản chỉ như một khách qua đường vì nhu cầu mưu sinh. Nhưng rồi khi làm việc dần dần trong câu chuyện chị chia sẻ với tôi có cho thấy đó cũng là một người Samari nhân hậu. Chị nói rằng đi làm đây chị ý thức hơn về trách nhiệm với người bệnh, với các thiện nguyện viên cũng như nhân viên y tế. Chị cũng chạnh lòng khi thấy những người bị lây nhiễm và nói rằng mình còn hạnh phúc hơn nhiều người. Thế rồi khi bị lây nhiễm chị như trở thành một người bị thương bên vệ đường. Chị kể về thái độ không tốt của một số người cùng dãy trọ, một số người khác khi nghe tin biết chị bị lây nhiễm…dần dần những ngày điều trị nơi đây, chị có nhiều tổn thương hơn. Gặp gỡ và nghe câu chuyện của chị, tôi nghiệm ra rằng “chính trận cuồng phong này đã bộc lộ tính mong manh của chúng ta và để lộ ra những điều hoàn toàn giả tạo và phù phiếm mà xung quanh chúng… Giữa cơn bão táp này, mặt nạ của những cách thức mà chúng ta đã dùng để ngụy trang cho cái tôi của mình, luôn lo lắng về dáng vẻ bề ngoài đã bị rơi xuống, một lần nữa để lộ ra ý thức hiển nhiên và đáng chúc phúc này: chúng ta là thành phần của nhau, chúng ta là anh chị em với nhau” (2).

Đang miên man suy nghĩ về chị lao công, tôi gặp một chú lao công đang trong giờ làm việc. Chú cho tôi biết chú là một người học không đến nơi đến chốn. Nhìn bên ngoài, chú cũng chỉ là một người lao công như người qua đường. Nhưng cách cư xử của chú làm tôi thấy đó là một tâm hồn của người Sa-ma-ri nhân hậu. Mặc dầu đã gần 14g chiều nhưng tôi thấy chú vẫn chưa thu dọn khu vực lầu 4, chú đứng nói chuyện với tôi, chú cho biết giờ này còn có các cô các chú vừa phục vụ trong phòng bệnh ra đang nghỉ nên cho các cô các chú nghỉ tí đỡ mệt đã. Tôi thấy chú rất tinh tế và biết nghĩ cho người khác.

Việc suy nghĩ và hành động cho người khác cũng được thể hiện nơi một điều dưỡng viên từ Hà Nội. Là tình nguyện viên và khi đi thì bố mẹ đều ngăn cản. Nhưng anh nói với tôi, mọi người nơi đây đang cần anh hơn gia đình. Mặc dầu ra đi cũng sợ lây nhiễm, mà thương bệnh nhân nên xung phong lên đường. Khi tan ca, ra ngồi bên ngoài, thấy khuôn mặt anh có chút đăm chiêu, tôi hỏi thăm. Anh nói hôm nay là sinh nhật của con trai tròn một tuổi, mọi người đang vui cùng nhau bên chiếc bánh sinh nhật. Tôi lặng buồn vì thấy trong anh cũng bị tổn thương khi không ở bên cạnh con trai khoảnh khắc nhiều ý nghĩa này. Nhưng vượt lên trên những điều đó cũng là tinh thần của một người Sa-ma-ri nhân hậu. Anh chăm sóc các bệnh nhân với tình yêu thương và tôi thấy “Anh cũng cho những bệnh nhân một thứ mà trong thế giới đảo điên của mình, chúng ta thường bám lấy thật chặt: anh đã cho họ thời gian của mình. Chắc chắn, anh đã có kế hoạch riêng cho ngày hôm đó, những nhu cầu, dấn thân và mong muốn của riêng anh. Nhưng anh đã có thể đặt mọi thứ sang một bên để đến trước những người bị thương, dù không hề quen biết họ, anh coi đó là điều xứng đáng để cống hiến thời gian và sự quan tâm của mình” (3). Anh như tâm sự “tôi không thể thu gọn cuộc sống của mình vào mối liên hệ chỉ với một nhóm nhỏ, thậm chí không phải chỉ là gia đình của mình mà thôi, bởi vì không thể hiểu bản thân mình nếu không có những mối quan hệ rộng lớn hơn, không chỉ mối liên hệ hiện tại mà còn là mối liên hệ đã có trước và đã định hình nên tôi xuyên suốt cuộc đời tôi” (4). Sự mở ra cũng được thể hiện nơi bác sĩ trưởng khoa của tôi.

Bác sĩ trưởng khoa nơi tôi làm việc, người đã có mặt từ đầu khi bệnh viện dã chiến thành lập. Chị đến với bệnh viện do sự sắp xếp của cấp trên. Chị lúc đầu cũng có suy nghĩ là chấp hành để cho xong nhiệm vụ được giao. Nhưng những ngày làm việc cùng và quan sát, tôi thấy chị là người có tấm lòng rất đẹp. Chị không bao giờ la rầy hay to tiếng với ai dù đôi lúc thấy chị khá mệt vì công việc. Ngoài những công việc chuyên môn của một bác sĩ, chị cũng quan tâm đến bệnh nhân từ những việc nhỏ nhất. Chị nhớ tên bệnh nhân, những bệnh nhân nặng thì chị quan tâm hơn và dặn chúng tôi phải chăm sóc kỹ hơn; chị cũng không ngại đút những thìa cháo cho các bệnh nhân, thay áo quần cho bệnh nhân. Thỉnh thoảng chị cũng hỏi thăm và cảm ơn những người thiện nguyên viên. Qua chị và những người khác, tôi thấy rằng “lúc này chỉ còn hai loại người: những người chăm sóc một ai đó đang bị thương tích và những người đi ngang qua; những người cúi xuống giúp đỡ và những người nhìn đi hướng khác và vội vàng bỏ đi. Ở đây, mọi phân biệt, mọi nhãn hiệu và mặt nạ của chúng ta đều rơi xuống: đây là khoảnh khắc của sự thật. Liệu chúng ta có cúi xuống để chạm vào và chữa lành vết thương của người khác không? Liệu chúng ta có cúi xuống và giúp người khác đứng lên không? Đây là thách thức hiện nay và chúng ta không nên sợ hãi khi đối đầu với nó. Trong thời điểm khủng hoảng, các quyết định trở nên cấp thiết. Có thể nói rằng, ở đây và bây giờ, bất cứ ai không phải là kẻ trộm cướp hay người qua đường, đều là người bị thương hoặc đang mang người bị thương trên vai” (5).

Không chỉ có bác sĩ trưởng khoa, mà cả những điều dưỡng viên cùng làm với tôi như chị Mỹ, anh Xuyên, chị Xuyến, chị Mai, chị Vân, chị Lương… đến từ những bệnh viên khác nhau, từ những vùng miền khác nhau nhưng cứ gọi nhau là anh em và rất vui vẻ trong lúc làm việc. Họ tận tình chăm sóc bệnh nhân nhưng cũng quên cùng nhau tạo ra những khoảnh khắc kỉ niệm qua những bức ảnh kiểu cách. Họ như diễn tả “yêu những người khác khi ở xa cũng như khi ở gần”. Họ cùng chúng tôi và những người khác đang cố gắng xây dựng những tình bạn xã hội, xây dựng tình huynh đệ đại đồng qua sự cởi mở và đón nhận nhau. Chính thái độ và cách cư xử của họ cho tôi thấy rằng “Thiên Chúa tiếp tục gieo nhiều hạt giống tốt lành trong gia đình nhân loại chúng ta. Một lần nữa, đại dịch gần đây cho phép chúng ta nhận ra và trân trọng tất cả những người ở quanh chúng ta, giữa cơn sợ hãi, vẫn đã phản ứng bằng cách trao ban mạng sống của chính họ trên những tuyến đầu. Chúng ta có thể nhận ra rằng, cuộc sống của chúng ta được dệt nên và được duy trì như thế nào bởi chính những con người rất bình dị, những người không hề nghi ngờ gì, đã viết nên những sự kiện quan trọng trong lịch sử chung của chúng ta: đó là các bác sĩ, y tá, dược sĩ, nhân viên siêu thị, người dọn dẹp, người chăm sóc, người vận chuyển, những người nam nữ làm việc để cung cấp các dịch vụ nhu yếu phẩm và an ninh, các tình nguyện viên, các linh mục, tu sĩ, v.v… họ hiểu rằng không ai được cứu một mình cả”(6).

Những hạt giống tốt lành này cũng có nơi chính những bệnh nhân, những người nhìn bên ngoài là những người bị tổn thương nhưng sâu thẳm cũng là những người Samaria nhân hậu trong cách họ cư xử với nhau, trong cách họ lo lắng cho chúng tôi, rồi chia sẻ với nhau những gì họ có... nơi họ tôi thấy rằng “tình yêu thương thì không quan tâm việc người anh chị em đang bị thương phát xuất từ nơi này hay nơi kia. Bởi vì chính “tình yêu đã phá vỡ xiềng xích ngăn cách và chia cắt chúng ta, xây nên những nhịp cầu. Tình yêu thương cho phép chúng ta xây dựng một gia đình tuyệt vời, nơi đó tất cả chúng ta có thể cảm thấy như ở nhà mình… Tình yêu thì biết xót thương và đầy nhân phẩm” (7).

Chính qua những người tôi gặp, tôi như đang đối diện với lời thách thức của Đức Giê-su là “gạt bỏ mọi dị biệt và, đứng trước đau khổ, sẵn sàng đến gần người khác mà không cần thắc mắc. Tôi không nên nói tôi có người thân cận để giúp đỡ, mà bản thân tôi phải là người thân cận cho người khác (8). Thách đố này không chỉ ngay trong giai đoạn dịch bệnh mà là một giai đoạn sau dịch bệnh.

Sau đại dịch, chúng ta có kinh nghiệm của một người bị tổn thương, cũng có kinh nghiệm của một người khách qua đường và kinh nghiệm của một người Sa-ma-ri nhân hậu. Ta biết những nỗi đau, những mất mát của bản thân và người khác. Ta cần sự xoa dịu và chữa lành, ta cũng biết kinh nghiệm xoa dịu và chữa lành vết thương cho người khác. Ta có thể vẫn sống như khách qua đường bàng quang với nỗi đau của người bên cạnh vì nghĩ rằng đó chỉ là những người không liên quan đến cuộc sống của ta. Ta cũng có thể tiếp tục xây những tháp ngà với sự an toàn của gia đình, của cộng đoàn, của nhóm nhỏ …hay chúng ta sẽ hoán cải để xây dựng những chiếc cầu yêu thương, nối kết bằng tình bằng hữu xã hội, cùng nhau xây đắp văn hóa tình thương. Chúng ta cùng nhau phải nhìn nhận rằng “Sự tổn thương, sự mong manh, nỗi sợ hãi và nhận thức về những giới hạn mà đại dịch gây ra, đã vang lên lời mời gọi chúng ta hãy suy xét lại về lối sống của mình, về các mối liên hệ của chúng ta, tổ chức xã hội của chúng ta, và trên hết, ý nghĩa của sự hiện hữu của mình (9). Dù cuộc sống dần trở lại bình thường, nhưng những tổn thương của đại dịch vẫn còn. Khi đó chính chúng ta có quyền chọn lựa cách sống của ta, những kinh nghiệm trong đại dịch sẽ cho ta những bài học quí giá để sống chậm lại, nghĩ khác đi và yêu thương nhiều hơn.

Chúng ta có thể chọn thực hiện lời mời gọi của Chúa Giê-su dành cho người thông luật “hãy đi và làm như người Samaria nhân hậu, ông sẽ sống”. Quả thật, sự sống của mỗi người được quyết định qua mối tương quan của người đó với Thiên Chúa và tha nhân. Mỗi con người không phải là một hữu thể khép kín nhưng là một hữu thể tương quan, luôn mở ra và đi đến với người khác, cúi xuống với người bên cạnh. Sau đại dịch chúng ta vẫn còn trên cùng một hành trình với tư cách của một người bị tổn thương cách này hay cách khác. Mỗi chúng ta được mời gọi cùng cố gắng “phục sinh cảm hứng về tình huynh đệ phổ quát, qua việc nhìn nhận phẩm giá của mỗi con người, chúng ta có thể góp phần vào việc hồi sinh khát vọng phổ quát về tình huynh đệ (11). Chúng ta được mời gọi góp phần vào trong sự tái sinh bằng những món quà chúng ta có thể trao tặng cho người khác và thụ tạo.

Từ món quà của chúng ta, chúng ta có thể làm nảy sinh cuộc sống, sức khỏe cho người khác, bệnh tật và đau khổ có thể góp phần vào văn hóa giúp đỡ, cho đi, hy vọng và sự sống. Chúng ta có thể tiếp tục bước đi trong câu hát của lời kinh hòa bình, của tình yêu thương đồng thoại và vũ trụ như thánh Phan-xi-cô As-si-si, người có thể gọi muôn vật muôn loài là anh, là chị và gọi tất cả mọi người là anh em.

(1) Tông huấn Tất cả là anh em của đức giáo hoàng Phan-xi-cô, # 69.
Ibid., ( # 32).
Ibid., ( # 63)
Ibid., ( # 89).
Ibid., ( # 70)
Ibid., ( # 54)
Ibid., ( # 62)
Ibid., ( # 81)
Ibid., ( # 32)
Ibid., (# 25)
Ibid., (# 8)

Hoàn Phạm, Hội Thừa Sai Việt Nam
(WGPSG)  

ĐÀI PHÁT THANH VATICAN THỨ BA 05.10.2021


TỔNG GIÁO PHẬN SAIGON: TRỰC TUYẾN THÁNH LỄ THỨ BA TUẦN 27 MÙA THƯỜNG NIÊN 2021. Thánh nữ Faustina. Lễ nhớ.

Bắt đầu lúc 05g30 Thứ Ba, ngày 05.10.2021
tại nhà thờ Chính toà Đức Bà Saigon
 

Thứ Hai, 4 tháng 10, 2021

TỔNG GIÁO PHẬN SAIGON: THƯ MỤC VỤ GỬI GIA ĐÌNH TỔNG GIÁO PHẬN NGÀY 04.10.2021

TÒA TỔNG GIÁM MỤC
180 Nguyễn Đình Chiểu - Quận 3
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
(84.28) 3930 3828
Email: tgmsaigon@gmail.com

Ngày 4 tháng 10 năm 2021

THƯ MỤC VỤ GỬI GIA ĐÌNH TỔNG GIÁO PHẬN

Kính thưa quí cha và anh chị em,

Sau hơn 4 tháng giãn cách xã hội và tạm ngưng các cử hành phụng vụ cộng đồng, chúng ta đang bước vào giai đoạn bình thường mới; các sinh hoạt tôn giáo cũng dần dần được phục hồi. Tiếp theo “Thông báo tái khởi động một phần sinh hoạt cộng đoàn”, nay tôi nêu lên một ít hướng dẫn mục vụ trong bối cảnh hậu giãn cách. 

1. Đời sống đức tin

Đối với người Công giáo, thánh lễ là một sinh hoạt thiết yếu, vì đức tin Công giáo vừa là niềm tin trong nội tâm, mang chiều kích cá nhân, vừa là sự gặp gỡ Thiên Chúa qua các bí tích trong cộng đoàn Hội Thánh được qui tụ chung quanh mục tử. Thánh lễ trực tuyến không thể thay thế việc tham dự trực tiếp, mà chỉ giúp nuôi dưỡng đức tin, dành cho người không thể đến nhà thờ, cách riêng là bệnh nhân, người già yếu và trẻ em trong thời điểm hiện tại.

Sau thời gian đói khát Thánh Thể, nay anh chị em đã có thể tham dự thánh lễ. Hiện tại chúng ta phải chấp nhận giới hạn số lượng tập trung trong nhà thờ, vì mặc dù đa số đã tiêm vaccine ngừa Covid-19, nguy cơ lây nhiễm vẫn còn cao. Sau này, khi các sinh hoạt trở lại bình thường, anh chị em hãy đến nhà thờ để tham dự thánh lễ và lãnh nhận Thánh Thể là sự sống thần linh; đừng để vì giãn cách lâu quá mà tâm hồn chúng ta ra nguội lạnh. Ngắm nhìn một bữa tiệc ngon, làm sao bằng chính mình được ăn tiệc!

Bước vào tháng 10, đáp lại lời Đức Mẹ Fatima mời gọi, chúng ta hãy ăn năn sám hối, lần hạt Mân Côi và tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ. Qua Kinh Mân Côi, chúng ta chiêm ngắm các mầu nhiệm cứu độ để hoán cải và sống theo Tin Mừng. Nhờ Kinh Mân Côi, chúng ta xin Chúa ban bình an và ơn cứu độ cho mọi người, nhất là xin ơn chữa lành trong thời gian đại dịch đau thương này. 

2. Ngày toàn quốc cầu nguyện

Ban Thường vụ Hội đồng Giám mục đã quyết định cử hành Ngày Toàn quốc Cầu nguyện xin Ơn chữa lành Mùa đại dịch. Cụ thể như sau: 

Thánh lễ ngày Chúa nhật, 17/10/2021: tất cả các linh mục cử hành Thánh lễ theo ý chỉ chung: cầu cho bệnh nhân, cho người đã qua đời, cho các y bác sĩ và nhân viên y tế, cho người đang gánh chịu hậu quả do dịch bệnh.

Ngoài thánh lễ, các cộng đoàn cũng cử hành giờ Chầu Thánh Thể, lần hạt Mân Côi hoặc lần hạt Lòng Chúa Thương Xót.

Những ai không thể tham dự trực tiếp, xin hiệp thông trực tuyến qua mạng internet. 

Giữ Chay trong ngày Thứ Sáu, 22/10/2021: cùng với lời cầu nguyện, mỗi người sẽ giữ chay và làm những việc hy sinh để đền bù tội lỗi của mình cũng như của nhân loại, và làm một việc bác ái giúp đỡ người nghèo khổ. 

3. Mục vụ chăm sóc

Đại dịch như cơn lũ càn quét thành phố suốt 5 tháng. Mặc dù lũ chưa qua hẳn, nhưng những mất mát thiệt hại đang lộ ra trước mắt: biết bao người nhiễm bệnh, người chết vì bệnh, người chết vì tự tử, người nghèo đói, người rời thành phố về quê… Bên cạnh đó, nhiều người đang chịu hậu quả trầm trọng về tâm lý và tinh thần: nhiều bệnh nhân dù thân xác đã khỏi bệnh nhưng tâm lý sẽ còn bị tổn thương lâu dài; nhiều người mất hết thân nhân nay còn lại một mình cô đơn.

Đây là lúc “các mục tử chăm sóc và thân hành kiểm điểm lại đoàn chiên” (x. Ed 34, 11-12). Người mục tử tốt biết chiên của mình (x. Ga 10, 14). Tôi đề nghị quí cha, các hội đồng mục vụ, các đoàn thể tông đồ giáo dân, hãy kiểm điểm lại đoàn chiên, bằng cách thăm viếng (luôn giữ 5K) hay gọi điện thoại, để biết rõ hoàn cảnh cụ thể của từng gia đình: ai bệnh, ai chết, người nào nghèo đói, người nào cô đơn, em nào mồ côi, người nào đã rời bỏ giáo xứ.

Anh chị em hãy an ủi, động viên và giúp đỡ những anh chị em đang đau khổ. Một lời chia sẻ cảm thông, những lần thăm viếng thường xuyên, sẽ đem lại sức mạnh và nghị lực tinh thần để họ đứng dậy tiếp tục bước đi. Nếu gặp một người bị tổn thương tâm lý trầm trọng, anh chị em hãy giúp họ gặp các chuyên viên tâm lý để chữa trị.

Trong thời gian qua, các giáo xứ và dòng tu đã rất quảng đại phân phát lương thực và hỗ trợ tài chánh cho người nghèo trong các khu xóm, đồng thời phối hợp với Văn phòng Hội đồng Giám mục, với Ban Caritas và Giới Doanh nhân Công giáo để thực hiện chương trình “Thương quá, Sài Gòn ơi”. Xin cám ơn anh chị em. Hãy tiếp tục nâng đỡ người nghèo vượt qua khó khăn.

Một vấn đề cần quan tâm lúc này, là các em mồ côi. Theo vnexpress ngày 14/9/2021, hơn 1.500 học sinh TP.HCM mồ côi vì cha mẹ và anh chị đã mất vì Covid. Con số thực tế cao hơn rất nhiều.

Ngoài sự trợ giúp của các tổ chức xã hội, tôi mời gọi quí cha, các dòng tu, các hội đồng mục vụ giáo xứ, các đoàn thể tông đồ giáo dân, tích cực tham gia “mục vụ chăm sóc các em mồ côi”. Đây là điều quan trọng cho tương lai của các em cũng như cho sự ổn định của xã hội sau này.

Về vật chất, Giới Doanh nhân Công giáo đang thực hiện chương trình “Lan tỏa Yêu thương” đợt IV, để hỗ trợ tài chánh cho những gia đình neo đơn, cách riêng là các học sinh mồ côi, trước mắt là trong 10 tháng và sẽ tiếp tục lâu dài.

Còn về tinh thần, đề nghị các giáo xứ lập danh sách các em mồ côi trong địa bàn, không phân biệt tôn giáo; sau đó các em vẫn ở lại với họ hàng, nhưng mỗi em sẽ được trao cho một gia đình hay một hội viên của một đoàn thể Công giáo, để thường xuyên thăm viếng, chia sẻ và cảm thông, khích lệ và hướng dẫn. Như vậy, nhờ hơi ấm tình thương của người thân, với sự cộng tác của giáo xứ, tâm lý các em được phát triển quân bình để trở thành người tốt cho xã hội.

Gia đình nào có thể bảo lãnh nuôi dưỡng một em mồ côi lâu dài, đó là điều rất quí.

Anh chị em thân mến,

Mỗi ngày chúng ta đều bước đi với những vấn đề mới. “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6, 34). Nhưng chúng ta luôn tin tưởng phó thác vào sự quan phòng đầy yêu thương của Cha Trên Trời và đặt niềm hy vọng vào Đức Kitô Phục sinh.

Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria và thánh Giuse, xin Chúa chúc lành và ban bình an cho gia đình Tổng giáo phận và cho toàn thể nhân loại.

(đã ấn ký)
+ Giuse Nguyễn Năng
Tổng Giám mục
 

(WGPSG)

ĐÀI PHÁT THANH VATICAN THỨ HAI 04.10.2021


TỔNG GIÁO PHẬN SAIGON: TRỰC TUYẾN THÁNH LỄ CHIỀU THỨ HAI TUẦN 27 MÙA THƯỜNG NIÊN 2021. Thánh Phanxicô Assisi. Lễ nhớ.

Bắt đầu lúc 17g30 Thứ Hai, ngày 04.10.2021 
tại nhà thờ Tân Phước
 

KINH MÂN CÔI - NGUỒN GỐC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN


KINH MÂN CÔI
NGUỒN GỐC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN

Tác giả: Linh mục Giuse Phan Tấn Thành, O.P.

NHẬP ĐỀ

Bài chia sẻ này không phải là một suy niệm theo nghĩa chặt (mặc dù ở phần kết, chúng ta sẽ thấy rằng bản chất của kinh Mân Côi là việc suy niệm hoặc chiêm niệm các mầu nhiệm của Chúa Kitô), nhưng chỉ trình bày lịch sử kinh Mân Côi theo những nghiên cứu trong thế kỷ XX. Năm nay chúng ta mừng hai kỷ niệm lịch sử quan trọng.

1/ Thứ nhất là kỷ niệm 800 năm ngày tạ thế của thánh Đa Minh. Nếu không phải tất cả các bức họa vẽ thánh Đa Minh đều gắn liền với kinh Mân Côi, thì ngược lại, có đến 80 phần trăm các bức học về Đức Mẹ Mân Côi đều có sự hiện diện của thánh Đa Minh; 20 phần trăm còn lại thì sao? Thưa rằng 10 phần trăm dành cho Đức Mẹ Lộ Đức và 10 phần trăm dành cho Đức Mẹ Fatima. Trong cả hai lần hiện ra này, Đức Mẹ đều mang tràng chuỗi và khuyến khích đọc kinh Mân Côi nhưng không có thánh Đa Minh đi kèm; nhưng mỗi khi đề cập đến nguồn gốc kinh Mân Côi thì không thể nào vắng bóng thánh Đa Minh. Theo tục truyền, chính Đức Mẹ đã hiện ra trao tràng hạt cho thánh Đa Minh, và thậm chí người ta còn xác định thời gian và nơi chốn nữa: đó là vào năm 1208, tại Prouilhe (miền Nam nước Pháp). Lúc ấy thánh Đa Minh đang giảng đạo cho lạc giáo Albigeois, và không được thành công cho lắm; thế nhưng nhờ chuỗi Mân Côi từ trời ban, ngài đã thu được kết quả phi thường.

2/ Kỷ niệm thứ hai đáng nhớ trong năm nay là chiến thắng của đội quân Kitô giáo ở Lepanto, ngày 7/10/1571 (nghĩa là cách đây 450 năm), đưa đến việc thiết lập lễ Mân Côi trong lịch phụng vụ. Ngoài ra, còn một kỷ niệm nho nhỏ nữa, như sẽ nói sau, là năm nay kỷ niệm 600 năm ấn định hình thức đọc kinh Mân Côi (năm 1421).

Thế nhưng, từ cuối thế kỷ XIX, kỷ niệm thứ nhất đã bị khoa lịch sử xét lại, theo đó thánh Đa Minh chẳng có dính dáng gì đến kinh Mân Côi hết! Vấn nạn dựa trên hai luận cứ chính: thứ nhất, các tài liệu cổ điển không hề nhắc đến việc thánh Đa Minh rao giảng Kinh Mân Côi; thứ hai, kinh Mân Côi được thành hình qua một tiến trình kéo dài nhiều thế kỷ: một đàng nó bắt đầu trước khi thánh Đa Minh xuất hiện, đàng khác nó hoàn tất gần 300 năm sau khi thánh nhân qua đời. Phần lớn bài nói chuyện hôm nay được dành cho luận cứ thứ hai, ôn lại nguồn gốc và sự tiến triển của kinh Mân Côi, bởi vì luận cứ thứ nhất đơn giản, khỏi cần dài dòng. Thực vậy, các nguồn sử liệu đầu tiên kể lại cuộc đời của thánh nhân và việc thành lập Dòng Giảng thuyết (thế kỷ XIII) [1], không hề đả động đến kinh Mân Côi, mặc dù nói rất nhiều về lòng hiếu thảo của ngài cũng như của thế hệ tiên khởi của Dòng đối với Đức Thiên Chúa Thánh Mẫu, mà dấu chỉ độc đáo nhất là các anh em khấn vâng lời Người[2]. Bài này gồm hai phần. Trước hết, chúng ta sẽ theo dõi sự tiến triển của Kinh Mân Côi dưới hai khía cạnh: hình thức và nội dung (hay nói kiểu kinh viện: chất thể và mô hình). Kế đó, xin đưa ra vài suy nghĩ về bản chất kinh Mân Côi, thêm vào vài nhận xét liên quan đến bối cảnh Việt Nam, cách riêng là chuyện từ ngữ. Tạm thời, chúng ta tạm dùng hạn từ “Mân Côi” vì đã quen thuộc, mặc dù trên thực tế, có khi còn được gọi là Mai khôi, Môi khôi, Văn côi; thời xưa gọi là kinh Rosa (mà ta có thể dịch là “hoa hồng” hay “bông hường”).

I. LỊCH SỬ TIẾN TRIỂN KINH MÂN CÔI

Như vừa nói, kinh Mân Côi có một tiến trình hình thành kéo dài nhiều thế kỷ trước và sau cuộc đời ngắn ngủi của thánh Đa Minh (k.1172-1221). Thực ra, nói đến sự tiến triển của kinh Mân Côi không phải là chuyện đơn giản. Để có thể nói đến sự tiến triển, trước phải xác định căn tính của nó: cái gì làm nên kinh Mân Côi? phải chăng đó là đọc 150 (hay là 50, hay là 200) kinh Kính Mừng? Việc lặp đi lặp lại kinh Kính Mừng đã đủ để cấu thành Kinh Mân Côi chưa, hay còn phải kèm theo việc suy gẫm các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu nữa? Ta tạm coi đây là khía cạnh hình thức; còn phần nội dung thì phải thêm vài câu hỏi nữa: đây là kinh nguyện dâng kính Đức Mẹ hay là kính nguyện hướng về Chúa Giêsu? Nên xếp vào khẩu nguyện hay tâm nguyện, suy niệm hay chiêm ngắm? Xin thưa trước rằng những câu hỏi vừa nói chỉ tìm được giải đáp vào giai đoạn cuối, chứ không phải vào lúc khởi đầu công trình, tựa như một ngôi nhà chỉ mặc hình thù nhất định sau khi đã hoàn thành, chứ vào lúc khởi công thì chỉ thấy một đống gạch và bao xi-măng. Bây giờ chúng ta hãy bắt đầu với việc thu gom chất liệu, rồi dần dần cất lên ngôi nhà.

A. Tiến triển về hình thức

Về hình thức cấu thành kinh Mân Côi, chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu lịch sử của các yếu tố sau đây: 1) tràng chuỗi đọc kinh; 2) bộ thánh vịnh kính Đức Mẹ; 3) liên kết với cuộc đời Chúa Cứu thế.

1/ Chuỗi đọc kinh

Lối tiếp cận đơn giản nhất là xâu chuỗi (“lần chuỗi Mân Côi”). Trong lịch sử các tôn giáo, việc sử dụng xâu chuỗi để đọc kinh không phải là cái gì độc đáo của Kitô giáo. Chung quanh ta, Phật giáo cũng có tràng chuỗi, với nhiều loại khác nhau, từ 16,18 cho đến 108 hạt. Tôi còn nhớ bài thơ “Hương Sơn phong cảnh ca” của Chu Mạnh Trinh được học thuộc lòng khi còn ở cấp hai: “Lần tràng hạt, niệm Nam mô Phật”. Đi xa hơn một chút về phía Tây, các tín đồ Islam cũng có tràng chuỗi 99 hạt kính các danh hiệu của Thượng Đế. Chúng ta cũng biết là các tràng chuỗi được dùng bằng các chất liệu khác nhau (xương, đá, ngà voi, thủy tinh, vân vân). Các đan sĩ Đông phương Kitô giáo cũng sử dụng các xâu chuỗi khi niệm danh Chúa Giêsu (Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi). và lặp đi lặp lại cả ngàn lần mỗi ngày[3]. Không hiểu tục lệ này là do sáng kiến của các đan sĩ, hay là chịu ảnh hưởng của các Ấn giáo và Phật giáo. Cần nói thêm là bởi vì các đan sĩ nghèo cho nên họ không chế ra những chuỗi hạt đắt tiền, mà chỉ dùng những sợi dây thắt nút[4].

2/ Tràng chuỗi 150 kinh Kính Mừng

Như vừa nói, tràng chuỗi chỉ là một dụng cụ để đếm, và cụ thể là đếm các kinh đọc vắn tắt. Từ đó ta có thể mường tượng nhiều loại chuỗi khác nhau, tùy theo chúng được sử dụng để đọc kinh gì. Đến đây, chúng ta hãy tiến thêm một bước nữa, đó là tràng chuỗi 150 hạt. Chúng ta hãy để các tôn giáo khác ra ngoài và chỉ tập trung vào đạo Công giáo. Tràng chuỗi 150 hạt dùng để đọc kinh gì? Thưa để đọc 150 thánh vịnh. Nên biết là cho đến công đồng Vaticanô II, các tu sĩ mỗi tuần phải đọc trọn bộ thánh vịnh (cuộc cải tổ dưới thời ĐTC Phaolô VI năm 1970 kéo dài ra chu kỳ 4 tuần như hiện nay). Các tu sĩ nào không đọc tiếng Latinh thì thay thế 150 thánh vịnh bằng 150 kinh Lạy Cha. Tục lệ này được ghi nhận nơi các tu sĩ Cluny (dòng Biển Đức) vào thế kỷ X.

Sang thế kỷ XI, nhờ việc cổ động lòng kính mến Đức Mẹ của thánh Bênađô (1090-1153), ngoài tràng chuỗi 150 kinh Lạy Cha, các đan sĩ Xitô còn thêm tràng chuỗi 150 hạt để đọc kinh Kinh Mừng. Tràng chuỗi được gọi là bộ thánh vịnh kính Đức Mẹ (Psalterium Beatae Mariae Virginis). Nên lưu ý là đang khi kinh “Lạy Cha” đã có hình thức cố định trong Tân Ước (với hai mẫu thức theo Tin Mừng Matthêu 6,9-13 và Luca 11,9-13, tuy mẫu thức của Matthêu phổ biến hơn), thì kinh “Kính Mừng” phải chờ 16 thế kỷ mới mang hình thức cố định. Trong thiên niên kỷ thứ nhất, có người đã sử dụng lời chào của sứ thần và của bà Elizabeth để chào Đức Maria (Lc 1,28.42), nhưng mãi đến thế kỷ XI, người ta mới dùng như lời cầu nguyện, và kết thúc tại đó (Ave Maria gratia plena, Dominus tecum, / benedicta tu in mulieribus, et benedictus fructus ventris tui). Thánh danh “Giêsu” được thêm vào giữa thế kỷ XII. Phần thứ hai của kinh Kính Mừng xuất hiện từ thế kỷ XIV (nghĩa là sau thánh Đa Minh), lúc đầu ngắn ngủi (“Sancta Maria, ora pro nobis”), rồi dần dần, mỗi nơi mỗi thời kèm thêm một vài lời khẩn nài (chẳng hạn: “xin Mẹ cầu cho chúng con là kẻ tội lỗi”). Mãi đến khi đức thánh Piô V công bố sách nguyện cải tổ theo ý định công đồng Trentô (năm 1568), kinh Kính Mừng mới mang một hình thức cố định trong toàn thể Hội thánh.

3/ Việc đọc kinh Kính Mừng gắn liền với cuộc đời Chúa Cứu thế

Việc đọc bộ thánh vịnh kính Đức Mẹ chưa đủ để tạo nên căn tính của Kinh Mân Côi. Cần phải đi thêm bước thứ ba nữa, đó là gắn liền kinh Kính Mừng với các mầu nhiệm của Chúa Cứu thế. Giai đoạn này diễn ra vào thế kỷ XV với nhiều sáng kiến khác nhau, trở thành nguyên nhân cho nhiều cuộc tranh luận giữa các sử gia. Có hai sáng kiến nổi bật nhất, một của Dòng Chartreux, một của Dòng Đa Minh.

a) Sáng kiến thứ nhất của Dòng Chartreux[5] do hai tu sĩ sống hầu như đồng thời nhưng có lẽ không quen biết nhau. Một là cha Henricus Egher Kalcar (1328-1408) ở Koln, chia bộ thánh vịnh Đức Mẹ ra thành 15 chục (có lẽ dễ đếm trên các ngón tay), và đầu mỗi chục thì thêm một kinh Lạy Cha. Hai là cha Dominicus Prussia (1384-1460)[6]: vào cuối mỗi kinh Kính Mừng (lúc đó chỉ có phần thứ nhất, sau thánh danh Giêsu, thêm một câu ngắn liên quan đến cuộc đời Chúa Cứu thế. Tất cả là 50 câu: 14 câu về thời thơ ấu, 6 câu về thời hoạt động công khai, 23 câu về cuộc tử nạn, 7 câu về cuộc Khải hoàn. Thí dụ Ave Maria, gratia plena, Dominus tecum. Benedicta tu in mulieribus, et benedictus fructus ventris tui Jesus Christus, quem Angelo nuntiante de Spiritu Sancto concepisti. Amen... (và Giêsu, Đấng mà Bà thụ thai do Chúa Thánh Thần khi sứ thần truyền tin. Amen)

b) Sáng kiến thứ hai của Dòng Đa Minh, do cha Alain de la Roche O.P.[7] quảng bá. Sự đóng góp của cha Alain vào sự phát triển kinh Mân Côi thật lớn: cha đã phân chia bộ thánh vịnh Đức Mẹ ra làm ba phần để kính nhớ cuộc Nhập thể, Tử nạn, Vinh hiển của Chúa Kitô. Vào mỗi kinh Kính Mừng, cha thêm một tư tưởng suy niệm các chân lý đức tin. Như vậy ngoài việc lặp đi lặp lại kinh Kính Mừng, cha Alain còn thêm việc suy ngắm các mầu nhiệm về cuộc đời Chúa Kitô. Cha đã xuất bản nhiều tác phẩm để giải thích ý nghĩa của kinh Mân Côi (Tractatus de Rosario B. Mariae Virginis, Koln 1472 ; Quodlibet de veritate fraternitatis Rosarii seu Psalterii beatae Mariae Virginis, Koln 1476). Từ nay, “thánh vịnh đức Mẹ” được đổi tên thành “vòng hoa hường trinh nữ Maria”.

Ngoài việc rao giảng Kinh Mân Côi, cha Alain còn thành lập “Hiệp hội thánh vịnh Mẹ Maria” (Confrérie du psautier de Notre Dame), bắt đầu tại Douai (1470). Các hội viên cam kết đọc hết 150 kinh Kính Mừng mỗi ngày[8], cũng như cam kết xưng tội rước lễ vào lúc ghi danh và mỗi năm ba lần (lễ Hiện xuống, lễ thánh Đa Minh, lễ Giáng sinh). Như vậy qua việc đọc kinh Mân Côi, các hội viên được thúc giục đào sâu các mầu nhiệm đức tin và tham gia các bí tích nữa.

Phong trào của cha Alain tiến triển mau lẹ, một phần cũng nhờ sự hợp tác của anh em cùng Dòng. Năm 1474, một bàn thờ dành cho Hội Mân Côi đã được thành lập tại tu viện Frankfurt. Năm 1475 (năm mà cha qua đời), cha bá cáo cho biết rằng số hội viên lên tới hơn 50 ngàn. Cũng vào năm ấy, Huynh đoàn Mân Côi (Fraternitas Rosarii) được thành lập tại Koln (do bề trên Giacôbê Sprenger). Tuy gặp vài chống đối đây đó nhưng cả hai hiệp hội tại Lille và Koln đã được giáo quyền địa phương châu phê. Sang năm 1479, chính Đức Giáo hoàng Sixtô IV đã châu phê hiệp hội, với bulla Ea quae ex fidelium (8/5/1479), mở màn cho các văn kiện Toà thánh về kinh Mân Côi.

Trước sự bành trướng mạnh mẽ của kinh Mân Côi như vậy, cha Alain nghĩ rằng chắc là phải có sự can thiệp từ trời cao. Trong bối cảnh ấy, cha đã gán việc thành lập kinh Mân Côi cho một “thị kiến” trông thấy Đức Mẹ đã trao tràng hạt cho thánh Đa Minh như khí cụ bài trừ lạc giáo[9]. Đây là một “lý luận” rất thông thường vào thời đó. Cha Dominico de Prussia cũng cho rằng mình đã nhận sáng kiến từ một “thị kiến”. Không thiếu sử gia cho rằng cha Alain đã lẫn lộn cha Dominico de Prussia với thánh Đa Minh (Dominico de Guzman). Nhưng có ý kiến phản biện rằng Cha Alain không lẫn lộn đâu, vì cha có quen biết cha Dominico de Prussia, nhưng không đồng ý với sáng kiến của dòng Chartreux muốn rút gọn kinh Mân Côi xuống còn 50 kinh Kính Mừng, đang khi nguồn gốc của bộ thánh vịnh kính Đức Mẹ phải gồm đủ 150 kinh.

Một chặng nữa trên đường tiến triển của kinh Mân Côi là trong một cuốn sách xuất bản tại Venezia vào năm 1521 (năm nay kỷ niệm 500 năm), cha Alberto da Castello O.P. đã phân chia ba mầu nhiệm lớn của bộ thánh vịnh kinh Đức Mẹ (Nhập thể, Tử nạn, Vinh hiển của Chúa Kitô) thành 15 mầu nhiệm nhỏ.

Văn kiện quan trọng nhất của Toà thánh về kinh Mân Côi là bulla Consueverunt Romani Pontifices (17/9/1569) của Đức Thánh Giáo Hoàng Piô V (OP), trong đó ngài kể lại nguồn gốc, mô tả bản chất, và những mục tiêu của việc đọc kinh Mân Côi. Việc đọc kinh Mân Côi đã được phổ biến rộng rãi trong toàn thể Hội Thánh nhất là từ khi đức Piô V nhìn nhận sự chiến thắng của đạo quân Công giáo chống lại sự tấn công của quân Thổ Nhĩ Kỳ tại Lêpantô (5/10/1571) là do lời chuyển cầu của Đức Mẹ Maria. Trong công hội (consistorium) ngày 17/3/1572 ngài quyết định thiết lập lễ Mân Côi để kính nhớ biến cố này. Tiếc rằng ngài đã qua đời (1/5/1572) trước khi thực hiện ý định. Theo lời thỉnh nguyện của cha Serafino Cavalli (tổng quyền Dòng Đa Minh), Đức Grêgôriô XIII đã thiết lập lễ Mân Côi (bulla Monet Apostolus, 1/4/1573) và cho phép cử hành vào chúa nhựt đầu tháng 10 tại bất cứ thánh đường nào có bàn thờ kính Đức Mẹ Mân Côi. Ngày 3/10/1716, đức Clêmentê XI nới rộng lễ này ra toàn thể Hội thánh để ghi nhớ một cuộc chiến thắng khác của lực lượng công giáo đẩy lui quân Thổ-nhĩ-kỳ tại Peterwarodine (gần Vienna, ngày 5/8/1716).

Dù sao, kinh Mân Côi từ thời thánh Piô V đã được ấn định là 150 kinh Kính Mừng được phân ra làm 15 chục. Cầu trúc này được duy trì cho đến ngày này. Duy có điều là với tông thư Rosarium Virginis Mariae (16/10/2002), ĐTC Gioan Phaolô II đã thêm 50 chục kinh mầu nhiệm Ánh sáng. Như vậy, tràng chuỗi Mân Côi ngày nay gồm 200 hạt, nhưng có lẽ ít người muốn “cập nhật” bởi vì dài quá! Chúng ta thường chỉ mang chuỗi 50 kinh.

B. Tiến triển về nội dung

Việc mô tả sự tiến triển hình thức vừa rồi đã cho thấy phần nào sự tiến triển về nội dung, từ chỗ đọc 150 kinh Kính Mừng đến việc gắn với việc suy niệm các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Cứu thế. Ở đây, khi bàn về sự tiến triển về nội dung, chúng tôi chỉ muốn nêu bật sự chuyển hướng từ kinh nguyện kính Đức Mẹ sang kinh nguyện kính Chúa Giêsu, và điều này xảy ra sau công đồng Vaticano II.

Kinh Mân Côi dịch từ Rosarium tiếng Latinh. Cha Alain tránh dùng tên ấy, và muốn gọi kinh này là Psalterium B.M.V., bởi vì vào thời ấy từ Rosarium mang ý nghĩa hàm hồ. Rosarium đôi khi được hiểu là một hợp tuyển những bài ca hay các danh ngôn. Rosarium cũng có nghĩa là vòng hoa hường mà các công tử mang biếu người đẹp. Rosarium cũng có nghĩa vòng hoa hường mà các cô bé đội trên đầu. Vết tích của ý nghĩa này còn được lưu lại trong tiếng Pháp chapelet (cái nón nhỏ: petit chapeau). Dù nói thế nào đi nữa, đây là một lời kinh kính Đức Mẹ, muốn dâng lên Mẹ những tràng hoa hồng để tỏ lòng thảo hiếu.

Sang thế kỷ XX, trong bối cảnh canh tân phụng vụ cũng như đối thoại đại kết, trọng tâm của kinh này đã được di chuyển từ Đức Maria sang Chúa Kitô. Trong số những văn kiện Toà thánh sau công đồng Vaticanô II bàn về kinh Mân Côi, cần phải nhắc đến tông huấn Marialis cultus của Đức Phaolô VI (2/2/1974) và tông thư Rosarium Virginis Mariae (16/10/2002). Hai văn kiện này không chỉ khuyến khích tăng gia việc lần hạt nhưng nhất là vạch cho thấy giá trị thần học của Kinh Mân Côi, theo đó kinh Mân Côi không phải là kinh kính Đức Mẹ cho bằng kinh kính Chúa Giêsu ; hay nói cách chính xác hơn: đây là kinh nguyện chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu nhờ cặp mắt và trái tim của Mẹ Maria[10]. Trong tông huấn Marialis cultus (số 42 ; 46), Đức Thánh Cha Phaolô VI đã gọi kinh Mân Côi là “toát yếu Tin Mừng” totius Evangelii breviarium[11]; và “kinh nguyện Tin Mừng” (oratio evangelica) bởi vì nhắm đến trung tâm là mầu nhiệm Nhập thể và Cứu chuộc của Chúa Kitô (xc. GLCG số 971).

Tông thư của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II một đàng lặp lại giáo huấn của vị tiền nhiệm, đàng khác đã mở ra nhiều hướng mới về đạo lý cũng như về thực hành. Xét về nội dung, tông thư giới thiệu kinh Mân Côi như kết hiệp với Đức Maria để chiêm ngắm Chúa Kitô : từ chỗ nhớ lại cuộc đời của Chúa, đến chỗ bắt chước, khẩn cầu cũng như loan báo. Những chiều kích này trùng hợp với kinh nguyện phụng vụ, xoay quanh các biến cố Nhập thể, Tử nạn và Phục sinh của Chúa Kitô (số 18-25). Xét về thực hành, có thể ví buổi đọc kinh Mân Côi như một buổi Lectio divina (số 26-38) với bốn bước cổ điển: công bố Lời Chúa (lectio), thinh lặng (meditatio), cầu nguyện (oratio, đọc kinh Lạy Cha, Kính Mừng), chiêm ngắm (contemplatio kinh Sáng danh).

II. VÀI SUY TƯ

Vì thời giờ ngắn ngủi, tôi chỉ xin đưa vài suy tư ngắn ngủi, xoay quanh hai mục: 1/ bản chất Kinh Mân Côi. 2/ Kinh Mân Côi trong bối cảnh Việt Nam

A. Bản chất Kinh Mân Côi

Chúng tôi chỉ muốn dừng lại ở hai điểm: 1/ hình thức cầu nguyện, 2/ đối tượng cầu nguyện

1/ Hình thức cầu nguyện

Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo kê ra ba hình thức cầu nguyện: khẩu nguyện (số 2700-2703); suy niệm (số 2705-2708); chiêm ngắm (số 2709-2719). Kinh Mân Côi bao gồm cả ba hình thức ấy. Quả là tuyệt vời! Tông thư Rosarium Virginis Mariae của ĐTC Gioan Phaolô II đã vạch ra 5 chiều kích của việc chiêm ngắm Kitô giáo như sau (số 13-17): a) Hồi tưởng công trình của Thiên Chúa; b) Học hỏi Chúa Kitô; c) Họa theo Chúa Kitô; d) Khẩn cầu Chúa Kitô; e) Loan báo Chúa Kitô.

2/ Đối tượng cầu nguyện

Đối tượng của việc chiêm ngắm là mầu nhiệm Đức Kitô. Như đã nói trên đây, có một sự chuyển hướng quan trọng trong việc xác định bản chất của kinh Mân Côi. Vào lúc đầu, kinh này được quan niệm như là một tràng hoa hồng dâng kính Mẹ Maria (bộ thánh vịnh 150 kinh Kính Mừng); nhưng ĐTC Phaolô VI và Gioan Phaolô II nhấn mạnh rằng đây là một việc chiêm ngắm các mầu nhiệm Đức Kitô, với cặp mắt và trái tim của Mẹ Maria. Lối giải thích này hợp lý hơn bởi vì trong khi năm mầu nhiệm mùa Vui, ta thấy có sự hiện diện của Mẹ, nhưng qua các mầu nhiệm mùa Sáng (ngoại trừ tiệc cưới Cana) và mùa Thương thì Mẹ rút vào bóng tối.

Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo đã dành các số 512-560 để bàn về đề tài “Các mầu nhiệm cuộc đời Đức Kitô”: các biến cố cuộc đời Đức Kitô mặc khải Thiên Chúa và thực hiện ơn cứu độ nhân loại. Chúng tôi chỉ muốn ghi nhận bốn điểm

a) Trước đây, nhiều khi chúng ta chú trọng đến chi tiết của 15 mầu nhiệm (mùa Vui – Thương – Mừng) mà quên rằng tất cả xoay quanh ba trục chính của công trình Đức Kitô, đó là: mầu nhiệm Nhập thể, Thập giá và Phục sinh (hay Vượt qua).

b) Trong lịch sử thần học, ngay từ thời các giáo phụ, có hai điểm nhấn khác nhau về ý nghĩa ơn cứu độ. Bên Đông phương, ơn cứu độ hệ tại việc “Con Thiên Chúa làm người ngõ hầu con người được làm con Thiên Chúa”; do đó ơn cứu độ được thực hiện kể từ lúc Nhập thể. Bên Tây phương, ơn cứu độ hệ tại con người tội lỗi được hòa giải với Thiên Chúa; và điều này được thực hiện nơi thập giá của Đức Kitô (cuộc phục sinh không được nhấn mạnh lắm)[12].

c) Có một khoảng trống giữa việc nhập thể và vượt qua của Đức Kitô. Cuộc đời ẩn dật tại Nazareth và cuộc đời công khai giảng đạo có góp phần vào công trình cứu độ không? Lấy lại tư tưởng của thánh Tôma Aquinô, sách Giáo lý Hội thánh Công giáo coi cuộc đời ẩn dật, các lời giảng, các việc thương xót chữa lành cũng mang tính cách cứu độ (số 517; 535-560). Đó là lý do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã chen thêm “Năm sự sáng” vào kinh Mân Côi.

d) Dựa theo tiêu chuẩn nào để “chọn lọc” 5 mầu nhiệm cuộc đời công khai của Chúa Kitô? Thật là khó nói. Người ta nhận thấy rằng ngay từ năm 1957, thánh Georges Preca, một linh mục hăng say với công cuộc huấn giáo ở Malta (1880-1962), đã viết một cuốn sách về Năm mầu nhiệm ánh sáng: (1) Đức Giêsu lãnh phép rửa tại sông Giordan và được đưa vào hoang địa; (2) Đức Giêsu tự mặc khải là Thiên Chúa bằng lời nói và phép lạ; (3) Đức Giêsu giảng dạy các mối phúc trên núi; (4) Đức Giêsu biến hình trên núi; (5) Đức Giêsu dùng bữa tiệc lý với các tông đồ[13]. Phải chăng Đức Gioan Phaolo II đã được gợi hứng từ đây?

B. Trong bối cảnh Việt Nam

Chúng tôi muốn thêm bốn nhận xét về việc chuyển dịch các từ ngữ liên quan đến kinh Mân Côi, các mầu nhiệm, các hoa trái và cuối cùng Kinh Kính Mừng.

1/ Tên gọi của kinh

Theo ông Nguyễn Cung Thông[14], lúc đầu, ở nước ta, kinh này được gọi là kinh Rosa (hoặc Rosario). Mãi đến từ điển Taberd (1838) mới thấy tên gọi “Hoa Môi khôi”. Dù sao nên biết ở miền Trung và Nam, từ “Môi khôi” thông dụng hơn, còn miền Bắc thì quen gọi là “Mân Côi, hay Văn côi” từ thế kỷ XIX. Những từ này gốc Hán Việt và có thể đọc theo nhiều cách khác nhau: Mai (hoặc Mân, Môi) là hoa hồng, bông hường; Côi (Khôi) là đá quý.

2/ Tên gọi ba mùa

Chúng ta quen gọi năm sự Vui -Thương - Mừng. Nhưng thử hỏi: có cái vui nào mà chẳng mừng, và có cái mừng nào mà chẳng vui? Thực ra nếu muốn dịch sát nghĩa, thì phải gọi là các mầu nhiệm “Vui mừng” (gaudiosa, joyful) - “Đau thương” (sầu khổ, dolorosa, sorrowful) - “Vinh hiển” (vinh quang: gloriosa, glorious).

3/ Các hoa trái

Nếu ai có dịp tham dự buổi đọc kinh Mân Côi ở nước ngoài, thì sẽ thấy người ta chỉ xướng lên mầu nhiệm (thí dụ Truyền tin cho Đức Mẹ); ở Việt nam còn thêm “ta hãy xin cho được ở khiêm nhường”. Tục lệ này bắt nguồn từ đâu vậy? Sau khi đi tra cứu, tôi thấy rằng đây không phải là sáng kiến của dân ta, nhưng là do thánh Louis Marie Grigion de Montfort, (Le Secret Admirable du Très Saint Rosaire)[15]. Sau khi suy niệm một mầu nhiệm, ngài thêm ý nguyện xin bắt chước bằng việc thực hành một nhân đức, được gọi là “hoa trái” (fruits). Thực ra danh sách các hoa trái trong nguyên bản rộng hơn là tập tục của Việt Nam. Xin trưng dẫn để đối chiếu[16].

a) Các mầu nhiệm vui mừng: Khiêm nhường; Bác ái với tha nhân; Thoát ly khỏi của cái thế gian, yêu mến đức thanh bần và những người nghèo; Vâng lời (hoặc: Thanh tịnh xác hồn); Sự khôn ngoan của Thiên Chúa (hoặc: niềm vui gặp gỡ Chúa Giêsu).

b) Các mầu nhiệm đau thương: Thống hối tội lỗi (hoặc: vâng theo ý Chúa); Khổ chế giác quan; Khinh chê thế gian (hoặc lòng can đảm); Kiên nhẫn vác các thánh giá của mình; Cầu xin cho các tội nhân được hoán cải, người lành được bền tâm; Các linh hồn trong luyện tội được nâng đỡ (hoặc: tha thứ; chết lành).

c) Các mầu nhiệm hiển vinh: Lòng yêu mến Thiên Chúa và nhiệt tâm phụng sự Ngài (hoặc: đức tin); Ước mong quê thật trên trời (hoặc: đức hy vọng); Chúa Thánh Linh ngự xuống tâm hồn chúng ta (hoặc: đức mến, ơn thâm hiểu); Lòng thảo hiếu với Đức Mẹ; Bền đỗ trong ân sủng và xin được hạnh phúc trên thiên đàng (hoặc: tin tưởng vào lời chuyển cầu của Đức Mẹ).

Dĩ nhiên, không ai cấm chúng ta thay đổi các ý chỉ này. Chẳng hạn như khi chiêm ngắm mầu nhiệm truyền tin chúng ta có thể xin cho biết đáp lại lời Fiat như Đức Mẹ, hoặc sống sự tự hủy (kenosis) của Đức Kitô.

4/ Kinh Kính Mừng

Kinh Kính Mừng đã mất hơn 15 thế kỷ mới có hình thức nhất định. Sang nước Việt Nam, cũng cần ba thế kỷ mới đạt được bản dịch như ngày nay[17]. Chúng tôi chỉ trưng dẫn vài mẫu tượng trưng.

a) Tiền bán thế kỷ XVII: “A Ve Ma Ri A, đầy ga ra sa, Chúa Dêu ở cùng Bà, nữ trung Bà có phúc lạ, Bà thai tử Giê Su , Người là Mẹ Đức Chúa Trời, thì xin cầu cho chúng tôi vì là kẻ có tội, lại xin phù hộ khi còn sống và khi rình qua đời”.

b) Năm 1869: “A Ve Ma Ri A đầy ga ra sa, Chúa Deo ở cùng bà, nữ trung bà có phúc lạ, bà thai tử Giê Su gồm phúc lạ. Sang Ta Ma Ri A đức mẹ chúa Deo, cầu cho chúng tôi kẻ có tội khi nay cập thần đẳng tử hầu”.

c) Đầu thế kỷ XX: “Ave Maria, đầy ga-la-ti-a, Chúa Dêu ở cùng bà, nữ trung bà có phước lạ, thai tử Giê-su gồm phước lạ. Xăng-ta Maria, Đức Mẹ Chúa Dêu, cầu cho chúng tôi, khi nay và cập thần đẳng tử hậu. Amen”.

d) Giữa thế kỷ XX (sau công đồng Đông Dương): “Kính Mừng Maria đầy ơn phúc (phước), Ðức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ, hơn mọi người Nữ, và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ. Thánh Maria Ðức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi này (nay) và trong giờ lâm tử. Amen”.

Điều chúng tôi muốn lưu ý là “benedictus”“benedicta” trong lời chào của bà Elizabeth (Lc 2,42) được dịch là “có phúc lạ”. Nhóm Các Giờ kinh phụng vụ dịch sát nghĩa hơn là “được chúc phúc” (Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc). Theo nghĩa này, người ta có thể xen thêm “và Giêsu, Đấng (Bà đã cưu mang, Đấng Bà mang đến viếng thăm bà Ysave, Đấng Bà đã sinh ra, Đấng được dân hiến cho Chúa Cha, Đấng dạy dỗ trong đền thờ, vv.) được chúc phúc”.

KẾT LUẬN: KINH MÂN CÔI VỚI DÒNG ĐA MINH

Như đã nói ở đầu, mỗi khi nói đến nguồn gốc Kinh Mân Côi, người ta không thể nào bỏ qua thánh Đa Minh. Liệu những nghiên cứu lịch sử gần đây có làm lung lay mối tương quan ấy không?

Xin thưa rằng kinh Mân Côi không do Đức Mẹ trao cho thánh Đa Minh, nhưng nó trở thành gia sản của Dòng. Ta có thể chứng tỏ điều này qua nỗ lực truyền bá kinh Mân Côi kể từ cha Alain de la Roche, xuyên qua các Hiệp Hội Mân Côi[18]. Trong cuốn “Tìm hiểu Dòng Đa Minh”, tôi cũng đã trình bày những sáng kiến khác trong thế kỷ XX nhằm cổ vũ kinh này: hội Mân Côi sống (do chị Pauline Jaricot sáng lập), hội Mân Côi liên lỉ (do cha Augustin Chardon), Equipes du Rosaire, vv.[19]. Về mặt cơ chế, tại Trung ương của Dòng có một vị Tổng đặc trách Kinh Mân Côi, và mỗi tỉnh dòng cũng có một đặc trách cổ võ kinh Mân Côi[20].

Dù sao, với hướng đi của Huấn quyền ngày nay, kinh Mân Côi không chỉ là một việc đạo đức nội bộ, nhưng được gắn liền với trung tâm của Kitô giáo, tức là các mầu nhiệm của Chúa Kitô. Rao giảng kinh Mân Côi cũng là rao giảng Tin Mừng, bằng ngôn ngữ sát với đời sống thường ngày. Cầu nguyện kinh Mân Côi cũng mang một hình thức tương tự như cử hành phụng vụ và lectio divina. Thật là một gia sản đáng cho chúng ta cần trân trọng, đặc biệt khi những cổ động viện của kinh Mân Côi không chỉ là các giáo hoàng nhưng nhất là chính Đức Mẹ Maria khi hiện ra ở Lourdes và Fatima.

Thư mục

(Những tác phẩm bàn về nguồn gốc kinh Mân Côi)

Thomas Esser, Unserer lieben Frauen Rosenkranz, Schöningh, Paderbon, 1889.

Franz Michel Willam, Die Geschichte und Gebetsschule des Rosenkranzes, Herder, Wien 1948.

Stefano Orlandi (a cura di), Libro del Rosario della Gloriosa Vergine Maria, Centro Internazionale Domenicano Rosariano, Roma, 1965.

Gilles Gérard Meersseman, Ordo Fraternitatis. Confraternite e pietà dei laici nel Medioevo, 3 voll., Herder, Roma 1977

Riccardo Barile, Il Rosario della Vergine, ESD Bologna 1990.

Anne Winston-Allen, Stories of the Rose. The Making of the Rosary in the Middle Ages, Penn State University Press, University Park (Pennsylvania) 1997.

Boguslaw Kochaniewicz, The contribution of the Dominicans in the development of the Rosary, in: Angelicum 81 (2004), 377-403.


[1] Phan Tấn Thành, Thánh Đa Minh: Sử ký và thánh ký, TSTH số 93 (tháng 8 năm 2021), trang 43-86.
[2] Phan Tấn Thành, Tìm hiểu Dòng Đa Minh. Học viện Đa Minh 2016, chương 16 “Dòng Đa Minh với Đức Maria” trang 240-256.
[3] Phan Tấn Thành, Truyền thống tâm linh trong các Giáo hội Đông phương (Đời sống tâm linh IV), NXB Phương Đông, TPHCM 2017, trang 187-195. 
[4] Được gọi là kombológion hay komboskoínon (kómbos tiếng Hy-lạp có nghĩa là nút dây). [5] Dòng Chartreux lấy tên từ địa điểm thành lập La Chartreuse (Pháp) năm 1084 do thánh Bruno (1030-1101). Lễ kính 6 tháng 10.
[6] Dominicus Prutenus (Dominikus von Preussen) được gọi theo nguyên quán (Danzica, ngày nay thuộc nước Ba-lan, nhưng thời ấy thuộc nước Phổ; Prussia), tên thật là Helion, sinh năm 1382, gia nhập đan viện dòng Chartreux ở Trier năm 1409, và qua đời năm 1460.
[7] Tên gọi là Alain de la Roche, tiếng Latinh là Alanus a Rupe (1428‑1475), phiên âm ra tiếng Ý và Tây-ban-nha thành Alanô. Cha sinh tại Dinan (Bretagne, Pháp), gia nhập dòng Đa Minh năm 1459, và đã từng dạy học tại Paris và giảng thuyết tại nhiều nơi ở Pháp, Bỉ, Đức. Cha qua đời tại Zwolle (Hà Lan) và được dòng Đa Minh kính như chân phúc tuy chưa được Giáo hội tuyên phong (lễ ngày 9 tháng 9).
[8] Cha Alain muốn các hội viên mỗi ngày đọc 150 kinh Kính Mừng. Tại Koln, nghĩa vụ được giảm bớt : các hội viên chỉ buộc đọc mỗi tuần 150 kinh Kính Mừng.
[9] Tục truyền còn gán cho cha Alain 15 lời hứa của Đức Mẹ dành cho kẻ siêng năng đọc kinh Mân Côi. Nhưng các văn kiện Tòa Thánh không đả động gì đến chuyện này.
[10] Một hệ luận mục vụ là có thể đọc kinh Mân Côi đang lúc chầu Mình Thánh Chúa.
[11] Thuật ngữ đã được đức Piô XII sử dụng từ năm 1946: Epistula Philippinas Insulas ad Archiepiscopum Manilensem, AAS 38,1946, p. 419.
[12] X. Phan Tấn Thành, Thần học và mầu nhiệm cứu độ, Thời sự thần học số 90 (tháng 11 năm 2020), trang 86-139, đặc biệt trang 100-101.
[13] John Formosa and Anthony Cilia, St George Preca and the new Rosary mysteries, https://ocarm.org/en/item/3415-st-george-preca-the-new-rosary-mysteries
[14] Nguồn: https://cvdvn.net/2019/10/25/tieng-viet-thoi-lm-de-rhodes-trang-hot-chuoi-hot-chuoi-man-khoi-mai-khoi-moi-coi-phan-19
[15] Thánh Louis Marie Grignion de Monfort (1673-1716), nổi tiếng với cuốn sách “Thành thực sùng kính Đức Maria”, được ĐTC Gioan Phaolo II nhắc đến ở số 13 của tông thư về Kinh Mân Côi.
[16] Méthodes pour réciter le Rosaire (Saint Louis-Marie Grignion de Montfort): christ-roi.net
[17] Nguyễn Cung Thông, “Tiếng Việt từ thời LM de Rhodes – các khuynh hướng dịch tiếng nước ngoài ra tiếng Việt: trường hợp bản Kinh Kính Mừng” (phần 26), nghiencuulichsu.com
[18] Boguslaw Kochaniewicz, The contribution of the Dominicans in the development of the Rosary, in: Angelicum 81 (2004), 377-403.
[19] Xc. Tim hiểu Dòng Đa Minh, Học viện Đa Minh 2016, trang 253-256. Ở trang 256 có thư tịch liệt kê những văn kiện của các bề trên tổng quyền từ năm 1963 đến năm 2010.
[20] Đặc trách của tỉnh dòng Việt Nam hiện nay là anh Phanxicô Xavie Trần Kim Ngọc, và một trong những phương tiện cổ động là mạng lưới hoimancoi.net và kinhmancoi.net
 
(WHĐ)

VIDEO ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ ĐỌC KINH TRUYỀN TIN VỚI KHÁCH HÀNH HƯƠNG TRƯA CHÚA NHẬT, 03.10.2021