Thứ Bảy, 9 tháng 4, 2011

GIÁO XỨ THUẬN PHÁT TĨNH TÂM MÙA CHAY 2011




* Tin vào tình yêu Thiên Chúa và yêu thương con cái Giáo hội Chúa Kytô. Cha Chánh Xứ Gioakim đã hy sinh rất nhiều để hằng ngày phục vụ phần rỗi, của mọi người trong giáo xứ. Và để cộng đoàn giáo xứ chuẩn bị, dọn mình xứng đáng đón mừng Lễ Phục Sinh năm nay, Cha Chánh Xứ đã mời Cha Phêrô Kiều Công Tùng, giáo sư Đại Chủng Viện Sàigòn đến giảng tĩnh tâm 3 ngày ( 19g30 các ngày 07,08,và 09/4/2011).

* Phần cuối của ngày tĩnh tâm ba, Cha Phêrô mời gọi cộng đoàn cùng nhau sống lại các Phép Bí Tích mà mỗi người đã được nhận lãnh khi mới chào đời (Bí Tích Thánh Tẩy), lãnh nhận Ánh Sáng Chúa Kytô và trong thinh lặng, mỗi người với nến sáng trên tay thành tâm sám hối, Tạ Ơn và dâng lời nguyện cầu lên cùng Thiên Chúa trước Thánh Thể ngay trên Cung Thánh.

* Kết thúc 3 ngày tĩnh tâm ông Chủ Tịch HĐMVGX đại diện giáo xứ ngỏ lời cám ơn Cha Phêrô vì lòng yêu mến Thiên Chúa, và ưu ái cộng đoàn giáo xứ Thuận Phát, đã hy sinh thời giờ vàng ngọc, thu xếp công việc giảng dạy tại Đại Chủng Viện, để nhận lời mời của Cha Chánh Xứ chúng con, đến đây chia sẻ và giúp chúng con dọn tâm hồn Mừng Chúa Phục Sinh được sốt sắng hơn... và chúc Cha tràn đầy sức khỏe để tiếp tục sứ vụ ban phát Ơn Chúa cho nhiều người.

* Hai đại diện giới trẻ dâng lên Cha Phêrô bó hoa tươi và quà tri ân Cha.

* Mời xem thêm hình Ở ĐÂY.


Hữu Toàn.

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY NĂM A (Ga 11, 1-45)


Mời xem videoclip

THIÊN CHÚA LÀ CHỦ SỰ SỐNG VÀ SỰ CHẾT

“Sinh-lão-bệnh-tử” là quy luật tự nhiên của kiếp nhân sinh. Khi con người sinh ra và lớn lên cũng đồng nghĩa với việc tiến dần tới lão hoá và đi dần dần đến cái chết. Tất cả mọi người đều hiểu được, sinh tử là quy luật đó, nhưng không ai tránh được cái chết. Cái chết không loại trừ bất cứ ai: từ thường dân đến vua quan, người quyền quý kẻ thấp hèn, người khôn kẻ dại, người mạnh kẻ yếu. Như Thánh Vịnh đã viết: “Người khôn cũng chết, kẻ ngu đần dại dột cũng tiêu vong”
(Tv 49, 11). Tất cả đều có một mẫu số chung đó là “sinh-tử”.

Sau khi nguyên tổ phạm tội “bất tuân phục Thiên Chúa”. Đau khổ, bệnh tật và sự chết đã nhập vào thế gian, nó trở thành quy luật tự nhiên của kiếp nhân sinh, nó là nỗi bất hạnh vượt quá tầm kiểm soát của con người. Con người phải bó tay trước những nỗi khổ, trước những bệnh hoạn tật nguyền và nhất là trước cái chết. Vì thế Thiên Chúa đã sai Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô đến Cứu độ trần gian, đem tình yêu, niềm vui, ban bình an và sự sống, chữa lành phần hồn phần xác, cho kẻ mù được thấy, người điếc nghe được, kẻ què đi được, người hủi lành sạch và người chết sống lại.

Qua việc phục sinh La-da-rô Chúa Giêsu đã mạc khải cho loài người biết, Ngài là Đấng Thiên Sai đến để cứu độ trần gian. Ngài làm chủ vũ trụ, làm chủ không gian và thời gian, Ngài làm chủ sự sống và sự chết. Ngài nắm trong tay dũng lực quyền năng, sống và chết đều thuộc về Ngài, như lời Chúa đã nói: “Chúa Cha làm cho kẻ chết trỗi dậy và ban sự sống cho họ thế nào, thì người Con cũng ban sự sống cho ai tuỳ ý”
(Ga 5, 21). Chúa Giêsu còn tỏ ra cho loài người biết điều hết sức quan trọng, đó là: “Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống. Và chính là lúc này đây, giờ các kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa; ai nghe thì sẽ được sống” (Ga 5, 24-25). Chúa Giêsu chính là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa. Ngài đã đem sự sống đến thế gian, để tất cả những ai đặt trọn niềm tin nơi Ngài, dù có chết cũng chỉ là giấc ngủ mà thôi, như trường hợp của La-da-rô mà Chúa Giêsu đã nói trong Tin Mừng hôm nay: “La-da-rô, bạn của chúng ta, đang yên giấc; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây.” (Ga 11, 11).

Khi Chúa Giêsu cùng với các môn đệ về đến Bê-ta-ni-a, thì La-da-rô đã an táng được bốn ngày. Chúa thấy Mác-ta và Maria sầu thương, khóc lóc, than phiền vì cái chết của La-da-rô. Các cô nói với Chúa: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết”
(Ga 11. 21, 32). Đã làm Đức Giêsu xúc động, xao xuyến trước cảnh đau buồn, chết chóc của số phận con người. Chúa cũng cảm thông và chia sẻ sự mất mát đó với chị em Mác-ta và Maria. Vì vậy, Chúa đã truyền mở cửa mồ cho La-da-rô, nhưng Mác-ta không hiểu được ý định của Chúa, cô hiểu theo lẽ thường, theo quy luật tự nhiên của loài thụ tạo, xác chết sau ba, bốn ngày thì sẽ bị phân huỷ, nên cô nói: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày” (Ga 11, 39). Chúa Giêsu đã phải nhắc lại cho Mác-ta nhớ lại lời Ngài đã nói với cô, để cô tin vào quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa. “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” (Ga 11, 40). Nói với Mác-ta xong, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện và cảm tạ Thiên Chúa Cha. Ngài là Đấng tác tạo vũ trụ, Ngài làm chủ muôn loài muôn vật, Ngài có quyền trên tất cả mọi sự trên trời dưới đất, sự sống sự chết cũng đều thuộc về Chúa. Để cứu độ trần gian Thiên Chúa đã sai Con Một của Ngài xuống thế làm người, giúp loài người được sống, được hạnh phúc: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con” (Ga 11, 41-42). Cầu nguyện xong Đức Giêsu đã truyền lệnh cho người chết: “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ!” (Ga, 11, 43). Sự chết đã phải vâng lời Chúa, buông tha con người, La-da-rô liền đứng dậy mà đi ra: “Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn” (Ga 11, 44).

La-da-rô là người được Chúa Giêsu thương mến, đã được Chúa cho sống lại sau bốn ngày chết nằm trong mồ. Qua đó Chúa muốn dạy mỗi người chúng ta bài học, tất cả những ai yêu mến Chúa, luôn đặt niềm tin tưởng cậy trông, phó thác cuộc đời trong vòng tay yêu thương của Chúa, sống tuân giữ và thực thi lời Chúa dạy, được Chúa thương mến, thì Chúa cũng sẽ cho người ấy sống lại, cho dù thân xác có bị thối rữa, bị phân huỷ theo thời gian. Thiên Chúa vẫn dùng quyền năng của Ngài, để làm cho những kẻ Ngài thương mến được sống hạnh phúc trước nhan Thiên Chúa. Như lời Chúa đã phán: “đã đến, giờ mọi kẻ ở trong mồ sẽ nghe tiếng người Con và sẽ ra khỏi đó: ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án”
(Ga 5, 28-29).

Cái chết làm tiêu tan mọi ước mơ, mọi dự tính, mọi hy vọng của con người. Cái chết dẫn đến chia ly, đau buồn, sầu thương, khóc lóc... Nhưng đối với những ai đặt trọn niềm tin tưởng, phó thác nơi Chúa Kitô thì dù có chết cũng sẽ được sống, vì Chúa đến thế gian để tiêu diệt sự chết, làm cho con người được sống, như chính Chúa đã nói với Mác-ta: “Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”
(Ga 11,25-26). Như Chúa đã làm cho La-da-rô chết bốn ngày được sống lại thì đối với người công chính, cái chết có thể là một cuộc trở về trong bàn tay Thiên Chúa, là sự yên nghỉ trong bình an (x. Kn 3, 1-4). Vì Thiên Chúa không bao giờ bở rơi những ai được Ngài thương mến.

Jos. Hồng Ân
(nguồn : thanhlinh.net)

Chủ Nhật, 3 tháng 4, 2011

AUDIO THÁNH LỄ CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY NĂM A

* Audio Thánh Lễ Chúa Nhật IV mùa Chay năm A.
Cha Chánh Xứ dâng Lễ.
Ca đoàn Cécilia hát Lễ.

Cuối Lễ có Chầu Mình Thánh Chúa ( Chúa Nhật đầu tháng ).

Mời bấm VÀO ĐÂY để nghe.


Hữu Toàn.

LỄ GIỖ CUỐI CÙNG

Lễ giỗ cuối cùng
Đức Gioan Phaolô II

G. Trần Đức Anh OP
T7, 02/04/2011 - 08:02

VATICAN. Thứ Bảy 2-4-2011, là lễ giỗ lần thứ 6 ĐGH Gioan Phaolô II. Đây là lễ giỗ lần cuối cùng trong đó các tín hữu còn cầu nguyện cho ngài, vì từ ngày 1-5 tới đây, sau lễ phong chân phước, các tín hữu sẽ chính thức được phép cầu khẩn sự chuyển cầu của Đức Cố Giáo Hoàng.


Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican, ĐHY Angelo Comastri, Giám quản Đền thờ Thánh Phêrô kiêm Tổng Đại diện của ĐTC tại thành Vatican, nói: “Chúng ta phải nhận rằng chính lúc Đức Gioan Phaolô II qua đời, dân Chúa đã xác tín rằng một Vị Thánh vừa về trời. Vả lại, trong thánh lễ an táng trọng thể gần 1 tuần sau đó, ngày 8-4-2005 ĐHY Joseph Ratzinger, niên trưởng Hồng Y đoàn, đã khẩn cầu phúc lành của Đức Gioan Phaolô II từ cửa sổ của trời cao, theo một nghĩa nào đó, Ngài đã coi Đức Cố Giáo Hoàng là vị thánh rồi. ĐHY Ratzinger nói: “Thưa Đức Thánh Cha, xin chúc lành cho chúng con từ cửa sổ trời cao!”. Với thánh lễ phong chân phước tới đây, trực giác của dân Chúa được củng cố bằng một nghi thức long trọng và chính thức của Đức Thánh Cha”.

Trong cuộc phỏng vấn, ĐHY Comastri cũng nhận định rằng “Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một vị Giáo Hoàng được vui mừng tôn phong vị tiền nhiệm của mình là Chân Phước. Chắc chắn đây sẽ là một cảm xúc ngoại thường đối với ĐGH Biển Đức XVI, nhưng cũng là một sự chắc chắn về tinh thần! Giờ đây, từ trời cao, Đức Gioan Phaolô II phù hộ những bước đường của người kế nhiệm và củng cố Người trong những thách đố mà Giáo Hội phải đương đầu. Trong những diễn văn đầu tiên, ĐTC đương kim đã nói: “Tôi dường như vẫn nghe tiếng nói của ngài nói với tôi: “Đừng sợ!”, lời mời gọi ấy, mệnh lệnh mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gửi đến toàn thế giới, tới các tín hữu Kitô rải rác trên hoàn cầu. “Anh chị em đừng sợ!”: giờ đây chắc chắn từ trời cao, ngài cũng nói với cả Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI trong thời điểm bi thảm này của lịch sự, trong lúc biển cả lịch sử dường như đang nổi ba đào. Bám chắc vào Chúa Giêsu, dưới cái nhìn của Mẹ Maria, chúng ta có thể tiến qua sóng gió bão táp này của lịch sử, chắc chắn đạt tới bến của Thiên Chúa”
(RG 1-4-2011)

Mặt khác, Hiệp Hội Papaboys ở Roma lên tiếng mời gọi các bạn trẻ trên thế giới đến dự lễ phong chân phước cho Đức Gioan Phaolô II vào ngày 1-5 tới đây vì không thiếu chỗ.

Hôm 31-3-2011, Cô Loredana Corrao, phát ngôn viên Hiệp hội Papaboys tuyên bố: “Các bạn hãy đến Roma để dự thánh lễ phong chân phước cho Đức Gioan Phaolô II, vì vẫn còn nhiều chỗ”.

Hiệp hội này, ngay từ sau khi có tin về ngày phong chân phước cho Đức Cố Giáo Hoàng, đã dấn thân giúp đỡ và cung cấp các dịch vụ cho các hội viên và bạn hữu để trú ngụ tại Roma và vùng phụ cận trong dịp lễ phong chân phước

Ngoài ra ngày 5-4 tới đây sẽ có một cuộc họp báo tại Phòng báo chí về tường trình về việc chuẩn bị thánh lễ Phong chân phước. Lên tiếng trong dịp này có ĐHY Agostino Vallini, Giám quản Giáo phận Roma, Đức ông Liberio Andreatta, Phó chủ tịch cơ quan hành hương Roma, và Đức Ông Marco Frisina, Giám đốc văn phòng phụng vụ thuộc tòa giám quản Roma.

Báo chí Italia ra ngày 27-3 vừa qua cho biết nhiều người Nhật đã hủy bỏ việc giữ chỗ khách sạn ở Roma để dự thánh lễ phong chân phước vì có cuộc động đất và nạn sóng thần vừa qua; cũng có những người Mỹ hủy chương trình đi Roma dự lễ vì sợ hậu quả của cuộc chiến tranh ở Lybie.

Ông Giuseppe Roscioli, Chủ tịch Liên hiệp các khách sạn ở vùng Roma tuyên bố với hãng thông tấn Pháp AFP rằng các khách sạn bị một loạt các vụ hủy bỏ việc giữ chỗ vì những lý do trên đây. Theo ông, nếu chiến tranh tại Lybie kéo dài, có nhiều du khách Mỹ và Á châu sẽ không dám đến vùng ven Địa trung Hải.

Nguồn: vietvatican

Thứ Bảy, 2 tháng 4, 2011

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY NĂM A (Ga 9, 1-41)


Mời xem videoclip

HÃY BIẾT MÌNH

Có hai vợ chồng đi tham quan một cửa hàng trưng bày tranh thêu lụa. Vừa bước tới cửa bà vợ đã chăm chú nhìn vào bên trong một hồi lâu rồi nhận xét: “Tranh gì đâu mà xấu vậy? Thêu người đàn bà chẳng giống ai!”. Ông chồng vội bịt miệng bà và nói: “Không phải tranh đâu, đó là gương đấy. Đó là hình ảnh của bà được phản chiếu qua gương đấy! Chớ nhận xét hồ đồ!”. Người đàn bà quá xấu hổ đành bỏ ra về.

Đó cũng là cảnh mù loà đáng thương của nhiều người trong chúng ta. Khi chúng ta phê bình chỉ trích người khác đang khi chính chúng ta vẫn còn đó đầy những lỗi lầm. Khi chúng ta chê bai anh em đang khi chúng ta vẫn còn đó những khuyết điểm và thói hư tật xấu. Chúng ta thường cắt nghĩa tốt về mình nhưng lại quá hà khắc về lối sống của tha nhân. Chúng ta thường mù loà về bản thân mình nhưng lại thích soi mói anh em. Đúng như cha ông ta vẫn nói:

“Chân mình còn lấm bê bê
Lại cầm bó đuốc mà rê chân người”.

Bài Tin Mừng hôm nay nói đến rất nhiều nhân vật nhưng chỉ có một người là sáng mắt thực sự. Người có mắt sáng là người biết nhìn nhận sự việc đúng sự thật. Người sáng mắt không lệch lạc về quan điểm, về sự việc. Người sáng mắt biết nhận định đúng về những gì đang diễn ra chung quanh. Đó là anh mù từ thuở mới sinh. Anh bị mù về thể xác nhưng sáng về tinh thần. Anh đã dám nhìn nhận sự thật cho dù vì đó mà anh bị trục xuất khỏi cộng đoàn. Anh đã công khai nói lên niềm tin của mình vào Đấng đã chữa lành cho anh. Cho dù anh gặp nhiều sự chống đối, nhiều hiểm nguy nhưng anh vẫn phải nói đúng sự thật về những gì đã diễn ra trong cuộc đời anh.

Nhưng tiếc thay nhiều người mắt sáng nhưng lại tối tâm hồn. Đó là các biệt phái đầy kiêu căng đã không thể nhìn thấy quyền năng của Chúa đang hiển thị trước mặt các ông. Đó là cha mẹ của anh mù vì sợ hãi đã lẩn trốn sự thật, không dám nói đúng sự thật cũng đồng nghĩa chấp nhận mình mù loà giữa đời. Người biệt phái vì lòng ghen ghét mà họ đã có cái nhìn lệch lạc về việc làm của Chúa Giêsu. Cha mẹ anh mù vì cầu an nên thiếu trách nhiệm với con và với người đã cứu con mình. Xem ra bệnh mù về tâm hồn có muôn vàn nguyên nhân dẫn đến mù loà. Và xem ra bệnh mù thể xác thì ít hơn bệnh mù về tinh thần. Bởi lẽ, mỗi một cách sống sai với lương tri con người đều được coi là căn bệnh mù loà của tâm hồn. Chúng ta có thể nhìn thấy những triệu chứng cũng như nguyên do của bệnh mù loà tâm hồn như sau:

Khi chúng ta quá ích kỷ dẫn đến không thấy nhu cầu của tha nhân để cảm thông và giúp đỡ.

Khi chúng ta quá vô tâm nên không thấy nỗi đau của anh em mà chính chúng ta đã gây nên cho họ.

Khi chúng ta quá lười biếng đến nỗi không còn thấy trách nhiệm và bổn phận của mình với gia đình và xã hội. Khi chúng ta quá bảo thủ và thành kiến nên không thấy điều hay, điều tốt của tha nhân.

Khi vì phán đoán nông cạn, hời hợt làm chúng ta mù loà không thấy những giá trị của người anh em và khiến ta hay lên án một cách hồ đồ, thiếu công bình và bác ái.

Nhưng điều quan yếu hơn cả đối với các tín hữu trong Mùa Chay không phải chỉ là nhìn nhận sự khuyết tật mù loà của mình đế sám hối canh tân, đề cầu xin Chúa chữa lành mà còn phải có một đời sống đức tin như anh mù sau khi được sáng mắt sáng lòng.

Đó là một đức tin đầy lạc quan, biết reo vui cảm tạ Thiên Chúa vì những ơn đã lãnh nhận. Đó là một đức tin đầy can đảm, sẵn sàng trực diện với những cạm bãy thù nghịch của những kẻ đồng đạo tội lỗi hay đã bị thoái hoá. Và đó cũng còn là một đức tin vững vàng chấp nhận thiệt thòi cô đơn, vì dám làm chứng cho ánh sáng giữa bóng tối tội lỗi, sa đoạ của trần đời hôm nay.

Nguyện xin Chúa là ánh sáng trần gian soi lối cho chúng ta đi trong ánh sáng và chân lý. Xin cho chúng ta can đảm đoạn tuyệt với bóng tối tội lỗi và chân thành sống theo ánh sáng của lề luật và tình thương. Amen

Lm. Jos Tạ duy Tuyền
(nguồn : thanhlinh.net)

Thứ Sáu, 1 tháng 4, 2011

LỊCH PHỤNG VỤ THÁNG 4.2011

LỊCH PHỤNG VỤ THÁNG 4/2011

Trong tháng tư này chúng ta sẽ mừng Chúa Nhật thứ 4, thứ 5 mùa chay, Chúa Nhật Lễ Lá và Đại Lễ Phục Sinh, chu kỳ năm A.

Chúa Nhật thứ 4 Mùa Chay (ngày 03 tháng 4).
  • Bài đọc 1 trích sách Samuel (16: 1, 6-7, 10-13): Thiên Chúa sai tiên tri Samuel đến để xức dầu tấn phong Đavít con ông Giessê làm vua.
  • Bài đọc 2 trích thư Êphêxô (5: 8-14): Chúng ta đã được thanh tẩy để trở nên con cái Chúa, con cái sự sáng, chúng ta hãy luôn giữ mình trong sạch khỏi mọi tội lỗi.
  • Bài Phúc Âm, trích Phúc Âm thánh Gioan (9 : 1-41): Chúa Giêsu làm phép lạ chữa người mù bẩm sinh được sáng mắt. Anh cũng được sự sáng trong tâm hồn và tin vào Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trần gian, để soi sáng cho thế gian nhận biết Thiên Chúa và thờ lạy Ngài.
Chúa Nhật thứ 5 Mùa Chay (ngày 10 tháng 4).
  • Bài đọc 1 trích sách Êgiêkien (37:12-14): Thiên Chúa sẽ ban thần khí của Ngài cho con người và con người được sự sống trong sự nhận biết Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống.
  • Bài đọc 2 trích thư Rôma (8: 8-11): Những ai sống theo thú tính xác thịt thì không thể đẹp lòng Thiên Chúa. Xin Thánh Thần Thiên Chúa đã làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết luôn ngự trị tâm hồn chúng ta để giúp chúng ta sống đẹp lòng Thiên Chúa.
  • Bài Phúc Âm trích Phúc Âm Thánh Gioan (11:1-45): Chúa Giêsu làm phép lạ cho ông Lagiarô, em bà Mátta và Maria, được sống lại và Chúa Giêsu xác định: "Ta là sự sống lại và là Sự Sống."
Chúa Nhật Lễ Lá (ngày 17 tháng 4) cũng gọi là Chúa Nhật Thương Khó, mở đầu Tuần Thương Khó (Tuần Thánh), đặc biệt kỷ niệm cuộc thương khó của Chúa để đền vì tội lỗi chúng ta. Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay có nghi thức làm phép lá phát cho giáo dân và rước kiệu lá để kỷ niệm việc Chúa Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem và được dân chúng và trẻ em tay cầm cành lá vui mừng hoan hô đón rước. Trong Thánh Lễ, các bài đọc đều hướng về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô.
  • Bài đọc 1 trích sách Isaia (50: 4-7): Chúa Giêsu được Thiên Chúa sai đến với chúng ta. Ngài đã hy sinh chấp nhận moi sự sỉ nhục để cứu chuộc nhân loại tội lỗi.
  • Bài đọc 2 trích thư Philipphê (2:6-11): Thánh Phaolô nói với chúng ta: Chúa Giêsu dù là Thiên Chúa nhưng đã hạ mình xuống như một người nô lệ, chịu mọi đau khổ và chịu chết nhục nhã trên Thánh Giá để cứu chuộc tội lỗi chúng ta; vì thế Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Ngài và mọi loài thọ tạo đều thờ phượng Ngài.
  • Bài Phúc Âm là bài Thương khó trích Phúc Âm Thánh Matthêu (26:14-27:66) nói về cuộc thương khó của Chúa Giêsu: Từ bữa ăn tình thương, rồi đến vườn Giệtsimani, rồi cuộc khổ nạn, vác Thánh Giá và chết trên Thánh Giá.
Sau Chúa Nhật Lễ Lá, chúng ta bắt đầu Tuần Thánh.
  • Trong Tuần Thánh, Thánh Lễ ngày thứ hai, thứ ba, thứ tư, các bài đọc đều nói đến cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Đặc biệt ngày thứ Năm, thứ Sáu, thứ Bảy Tuần Thánh được gọi là Tam Nhật Thánh.
  • Thứ Năm Tuần Thánh kỷ niệm việc Chúa Giêsu và các tông đồ ăn bữa ăn tình thương (tiệc ly): Chúa Giêsu cúi xuống rửa chân cho các tông đồ để dạy chúng ta phải học hạ mình xuống để phục vụ mọi người và Chúa Giêsu lập bí tích Thánh Thể và bí tích Truyền Chức Thánh. Hôm nay buổi sáng không có Thánh lễ tại các giáo xứ, chỉ có một Thánh lễ sáng tại nhà thờ chánh tòa địa phận do Đức Giám Mục giáo phận chủ tế và các Linh Mục đồng tế. Trong thánh lễ có nghi thức tuyên hứa về Chức Thánh của Đức Giám Mục và các linh mục, và phần làm phép Dầu Thánh để phân phối về các giáo xứ. Buổi chiều thườg chỉ có một Thánh lễ tại mỗi giáo xứ. Trong Thánh lễ, sau bài Phúc Âm có nghi thức rửa chân, nhắc nhở chúng ta về việc Chúa Giêsu đã hạ mình xuống rửa chân cho các tông đồ để dạy chúng ta bài học khiêm tốn phục vụ lẫn nhau.
Lm.Anphong Trần Đức Phương
(nguồn : vietcatholic.net)

Thứ Năm, 31 tháng 3, 2011

LỚP ĐỆM ĐÀN PHỤNG VỤ





Ngày 15.2.2011, Giáo xứ Thuận Phát đã tiếp tục mở lớp đệm đàn phụng vụ, đào tạo nhạc công cho các ca đoàn trong giáo xứ.

Năm 2006 trong tình hình thiếu người đánh đàn cho các ca đoàn (giáo xứ có 6 ca đoàn), cha chánh xứ Phêrô Phạm Văn Long đã cùng với Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ khai mở lớp dạy đệm đàn phụng vụ với 16 em tự nguyện ghi danh theo học dưới sự hướng dẫn của sơ Maria Goretti
Trần Thanh Khiết, dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán. Lớp khai giảng ngày 10.7.2006.

Mùa hè năm 2008 sơ Maria Goretti Trần Thanh Khiết đi phục vụ tại Mỹ Tho theo sự hoán chuyển của nhà dòng nên lớp đã phải tạm gián đoạn sau ngày 26.5.2008.

Ngày 24.7.2010, cha Gioakim Lê Hậu Hán về nhận xứ thay cha Phêrô, với điều kiện thuận lợi đã sẵn có, ngài đã nhanh chóng cho mở lại lớp.

Ngày 22.2.2011 lớp đã chính thức khai giảng với 19 học viên chia ra 2 nhóm :
  • Nhóm sơ cấp : 13 em
  • Nhóm nâng cao : 06 em
Hiện nay các học viên của lớp được thầy Nguyễn Nam Thuỵ dạy mỗi tuần 1 tiết vào tối thứ ba từ 19g30 đến 21g00. Với mục đích học để phục vụ giáo xứ trong ơn gọi Thánh Nhạc nên các học viên được miễn học phí hoàn toàn. Mọi chi phí của lớp đều do giáo xứ đài thọ, chỉ yêu cầu các em phải cố gắng đi học đều mỗi tuần và hoàn thành bài tập do thầy giáo chỉ định. Học viên muốn nghỉ tiết phải được cha mẹ xin phép.

Hy vọng với sự quan tâm, khuyến khích của quý phụ huynh và sự hy sinh, chăm chỉ của các em, trong tương lai gần giáo xứ sẽ có nhiều nhân tài đệm đàn phục vụ trong các ca đoàn.

Mời xem thêm hình

Anh Tuấn

Thứ Ba, 29 tháng 3, 2011

CẢM TẠ

CẢM TẠ

Kính thưa quý Cha,
quý Tu Sĩ nam nữ và anh chị em

Con xin chân thành cám ơn
vì những ân tình yêu thương
đã dành cho má con là
Bà Cố Maria.


Xin ghi nhận nơi con lòng biết ơn sâu xa.

Thân kính
Lm. Giuse Trần Văn Hiển, SDB.

Chủ Nhật, 27 tháng 3, 2011

AUDIO THÁNH LỄ CHÚA NHẬT III MÙA CHAY NĂM A

* Audio Thánh Lễ Chúa Nhật III mùa Chay năm A.
Cha Phaolô Nguyễn Quốc Hưng, Chánh xứ giáo xứ An Nhơn, Hạt Xóm Mới, TGP Sàigòn dâng Lễ.
Ca đoàn Cécilia hát Lễ.

Mời bấm VÀO ĐÂY để nghe.


Hữu Toàn.

Thứ Bảy, 26 tháng 3, 2011

TRANG LẼ SỐNG

Kính thưa quý độc giả,

Từ ngày 25 tháng 3 năm 2011 loạt bài LẼ SỐNG hàng ngày được chuyển vào trang chuyên mục LẼ SỐNG. Xin kính mời quý vị bấm chuột vào trang LẼ SỐNG để tiếp tục theo dõi loạt bài này.

Cũng tương tự như vậy, đường dẫn đến các VIDEOCIP LỜI CHÚA HÀNG TUẦN được chuyển vào trang chuyên mục LỜI CHÚA.

Chân thành cám ơn quý vị đã thường xuyên vào thăm trang thông tin của giáo xứ THUẬN PHÁT và ủng hộ chúng tôi trong thời gian qua.

Nguyện xin Chúa ban tràn đầy hồng ân cho quý vị. Xin cầu nguyện cho chúng tôi ngày càng có nhiều thuận lợi để loan truyền Tin Mừng, phục vụ Giáo Hội trong ơn gọi Truyền Thông.

Giáo Xứ Thuận Phát
thuanphat2009.blogpost.com

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY NĂM A (Ga 4, 5-42)

AI KHAO KHÁT ĐƯỢC NƯỚC HẰNG SỐNG?

Chúa Giêsu đáp: "Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà: 'Xin cho tôi uống nước', thì chắc bà sẽ xin Người, và Người sẽ cho bà nước hằng sống". Chúa Giêsu trả lời: "Ai uống nước giếng này sẽ còn khát, nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa, vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời".
(Ga 4, 5-42).

Cuộc đời của con người trần gian đã khác lắm đối với những con người sống trong mộng mị, không tưởng, và luôn được ao ước ông Trời ban cho họ cuộc sống sung túc khá giả; ước cho được trúng số là một; hai là có ông tiên hay người nhà giầu nào đó trước khi chết để tặng lại cho họ một số tiền kếch xù, mà thỉnh thoảng trần gian có những chuyện hiếm có được xẩy ra. Tuy dù bao nhiêu triệu con người ta thì chỉ có được một vài người trúng số, và cũng trong bao nhiêu triệu triệu con người ta thì có được vài người nhà giầu có lòng hảo tâm. Và thường sau thời gian lâu dài họ sống trong mộng mị và ao ước mãi, cũng sẽ dạy cho người ta hãy thức tỉnh mà phải sống thực tế. Ao ước không làm cho bụng ta no. Ao ước không giúp cho chúng ta được ấm. Mơ tưởng không giúp cho chúng ta phụ nữ kiếm được chồng giầu mà lại là quân tử nữa!. Cho nên hãy nhìn thẳng vào thực tế mà sống thật với chính mình. Bởi vì mộng ước vẫn chỉ là mộng ước. Đó là cuộc sống rất thường tình của con người trần gian, chẳng giúp cho chúng ta được gì... Nhưng với Thiên Chúa và trong Thiên Chúa thì mọi ao ước được Nước Hằng Sống trên Quê Trời thì ai cũng có thể đến đó được, với điều kiện là chúng ta phải khẩn thiết xin với Người là Chúa Cha trên Trời; là Đấng mà có thể ban phát tất cả cho con cái của Người.

Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn chúng ta hiểu được như vậy và tin tưởng làm vậy!. Ai như người phụ nữ tội lỗi thuộc xứ Samaria mà lại được đích thân Chúa giúp bà tìm Nước Hằng Sống chứ?. Sự việc Chúa tiếp chuyện cùng bà đã cho chúng ta thấy Tình Yêu Thiên Chúa quả nhân từ và độ lượng, Ngài ngay cả chẳng bắt lỗi bà một tiếng nào. Ngài thương yêu bà mà cảm thấy chua xót đắng đót cho cuộc đời của bà quá chăng, vì cả đời bà chẳng có ông nào là chồng chính thức cả!. Con người trần gian thì chẳng có một ai xứng đáng trước Tôn Nhan Thiên Chúa. Nên Chúa dạy chúng ta hãy xin với Chúa Cha ban cho hết thảy được Nước Hằng Sống, để tất cả con người trần gian sẽ không bao giờ còn bị khát nữa!. Chúng ta càng lao đầu vào những tranh chấp, bon chen, tham lam danh vọng quyền lực hão huyền, thì muôn đời chúng ta sẽ phải khát mãi, và muôn muôn đời chúng ta sẽ chẳng có cơ hội biết tìm đến và được đến Nước Hằng Sống.

Cuộc sống của chúng ta tất bật quá! Không có giờ để tìm kiếm Chúa. Vất vả quá chỉ vì luôn tìm kiếm những gì vô bổ mà không dành thời giờ cho Chúa. Chúa đâu có dạy chúng ta ôm đồm và tích lũy hết tất cả những gì không phải của mình, để mất cả nhân tính và tình người. Chúa đâu có dạy chúng ta phải tậu những thứ không cần thiết để làm hại cho chính linh hồn đời đời của chúng ta. Chúa đâu có
dạy chúng ta phải hại người anh chị em của chúng ta để chúng ta có thêm đất, nhà, xe, và những thứ vô tri vô giác không ban cho ta sự sống muôn đời. Nếu chúng ta có ít thời giờ để đi ra giếng múc nước như người đàn bà Samaria, có thể Chúa sẽ đến để mở lời gợi ý cho chúng ta biết tìm Nước Hằng Sống ở đâu trước khi quá trễ. Vì tất cả chúng ta đều là tội nhân không xứng đáng với lòng Thương Xót của Chúa.

Nhưng với cuộc sống lạc quan tin vào Thiên Chúa quan phòng, thì Thiên Chúa nhân từ của chúng ta, Ngài không muốn bỏ một ai tuy dù chúng ta tội lỗi ngụp lặn đến đâu. Người đàn bà Samaria tội lỗi đến thế mà được chính Chúa Giêsu tìm gặp bà mà ban cho bà một cơ may để tìm đến Nước Hằng Sống. Vâng, Chúa Giêsu
dạy bà và cả chúng ta nữa là hãy tìm kiếm Chúa mà xin với Người, Người sẽ thương mà ban cho. Trong Mùa Chay, Chúa Giêsu đã chứng tỏ lòng Thương Xót của Thiên Chúa, dạy chúng ta hãy trở về cùng Chúa. Hãy đấm ngực ăn năn hỡi tất cả chúng ta ai đang sống trong lỗi tội. Đây là cơ hội để chúng ta phải tìm trở về. Đây là dịp mà chúng ta phải cởi bỏ tất cả con người cũ để Chúa mặc trên thân xác chúng ta một y phục mới trắng tinh, mà chỉ có Thiên Chúa mới ban cho chúng ta được thôi!.

Với thân xác mới cùng với tâm hồn mới mà Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta, giúp chúng ta biết nhìn anh chị em mình với đôi mắt yêu thương và trìu mến. Biết dang đôi cánh tay mở rộng để chia sẻ thật nhiều với những anh chị em khốn cùng. Biết đi trên con đường ngay thẳng. Biết nhận thức được đâu là công và đâu là tội, để giúp nhau tìm thấy Chúa trong anh chị em, để cùng dẫn dắt nhau đến được Nước Hằng Sống và vĩnh cửu của Người. Vì Người và Nước của Người sẽ mang lại cho chúng ta hạnh phúc viên mãn muôn đời, Nơi mà chúng ta sẽ được Chúa dưỡng nuôi và tất cả chúng ta sẽ là anh chị em một nhà trong tình yêu của Thiên Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần. Amen.

Y Tá Của Chúa,
Tuyết Mai


Thứ Năm, 24 tháng 3, 2011

LẼ SỐNG 24.3

24 Tháng Ba
Vững Niềm Tin

Vào năm 1856 các nhà khảo cổ đã thực hiện một cuộc khám phá đầy thú vị tại đồi Palatino tại thành phố Roma. Khi đào bới những lớp đất bao phủ một trại lính Roma cổ, trên vách một bức tường, họ tìm thấy một cây thập giá được một người lính nào đó dùng đinh hay mũi dao khắc vụng về vào tường. Bên cạnh là hình một chàng thanh niên giơ tay chào kính cây thập giá. Trên cây thập giá có vẽ hình một người, nhưng đầu người ấy là hình một con lừa. Dưới hai hình vẽ, người ta thấy có viết hàng chữ: Alexamenos thờ lạy Chúa của hắn.

Các nhà khảo cổ cho rằng: Có thể bức tranh đã được thực hiện vào những năm 123 đến năm 126. Nếu sự phỏng đoán về niên hiệu này là đúng thì đây có lẽ là hình vẽ thập giá cổ nhất, nhưng lại là hình thập giá bị nhạo báng, chê cười: Nếu Thiên Chúa lại chết trên thập giá thì đây là hành động yếu hèn, khờ dại như hành động của một con lừa và cả những người thờ lạy Thiên Chúa trên thập giá cũng thế.

Vào năm 1870, các nhà khảo cổ lại tìm được câu trả lời mà họ nghĩ là của một chàng thanh niên mang niềm tin Kitô tên là Alexamenos. Ở một cột trụ bằng đá dựng hình thần Mars tức là vị thần chiến tranh, người ta khám phá thấy được khắc vào đó dòng chữ: "Alexamenos vẫn vững tin".

Vâng, hình ảnh Thiên Chúa chết treo trên thập giá là một hình ảnh khủng khiếp, yếu đuối, dại khờ. Nhưng Thánh Phaolô đã biện hộ cho hành động có thể gọi được là điên rồ của Thiên Chúa như sau:

"Tiếng nói của thập giá đối với những kẻ hư hỏng là điên dại, còn đối với các người được cứu rỗi, tức là chúng ta, thì là sức mạnh của Thiên Chúa. Thật vậy, người Do Thái đòi hỏi phép lạ, người Hy Lạp tìm kiếm sự khôn ngoan. Còn chúng tôi thì giảng về Chúa Kitô chịu đóng đinh vào thập giá. Người Do Thái cho điều đó là xấu xa, còn các người ngoại giáo thì cho là dại dột. Song với tất cả được Thiên Chúa tuyển chọn thì Chúa Kitô chịu đóng đinh là sức mạnh và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa".

Trích sách Lẽ Sống
(nguồn : thanhlinh.net)

LẼ SỐNG 23.3

23 Tháng Ba
Cầu Xin và Cảm Tạ

Một buổi sáng kia, một cô giáo dạy vườn trẻ chưng một bình hoa thủy tiên tuyệt đẹp trên chiếc bàn đặt ở giữa phòng. Khi các em bé nhỏ thơ ngây tung tăng tiến vào phòng học, có một em tròn xoe đôi mắt nhìn ngắm những chiếc hoa màu vàng lợt và em nói với cô giáo: "Có phải Chúa đã làm ra những bông này không, em muốn gọi dây nói để cảm ơn Chúa đã cho chúng ta những cái bông đẹp".

Nếu đất với trời được nối kết với nhau bằng dây điện thoại, thiết nghĩ Thiên Chúa sẽ phải đặt ra hai đường dây: Một đường dây cho những kẻ cầu xin và một đường dây dành cho những lời cám ơn. Và người ta sẽ thấy một đường điện thoại luôn luôn bận rộn. Trong khi đường dây kia thỉnh thoảng mới được dùng đến như một chuyện ngụ ngôn kia thuật lại như sau:

Hai Thiên thần được sai xuống trần gian, mỗi vị mang theo một chiếc giỏ. Họ chia tay nhau để đi khắp hang cùng ngõ hẻm, đến nhà các người giàu có cũng như những kẻ nghèo khổ, thăm các trẻ em cầu nguyện tại tư gia cũng như tất cả nam phụ lão ấu cầu nguyện tại các nhà thờ.

Sau một thời gian, hai Thiên thần gặp nhau đúng thời điểm đã hẹn để trở về trời. Chiếc giỏ của một thiên thần nặng như chì, còn chiếc giỏ của Thiên Thần kia có vẻ nhẹ như đựng toàn bông gòn.

"Ông mang gì mà nặng thế?", một Thiên Thần hỏi. Thiên Thần mang giỏ nặng trả lời: "Tôi được sai đến để thu nhận tất cả những lời cầu xin của nhân loại. Còn ông, cái giỏ của ông xem ra nhẹ nhàng thế?".

"À, tôi được sai đến để góp nhặt những lời cám ơn Thiên Chúa vì những ơn lành Ngài luôn ban cho họ".

Sự thật về hai cái cân nặng nhẹ của những lời cầu xin và những lời cám ơn trên cũng được bài Tin Mừng về 10 người phong hủi được Chúa Giêsu chữa lành bệnh thuật lại như sau: Một trong bọn họ thấy mình được làm sạch, bèn quay trở lại lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người. Mà người ấy lại là người xứ Samaria. Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: "Chớ thì không phải cả 10 người được làm sạch sao? Còn 9 người kia đâu? Sao không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại bang này?".

Ðể sống trọn lời Chúa, ước gì cuộc sống chúng ta được diễn ra hằng ngày theo lời khuyên sau đây: Hãy chỗi dậy với tâm hồn thư thái và hãy tạ ơn cho một ngày mới mình được yêu thương.


Trích sách Lẽ Sống
(nguồn : thanhlinh.net)

Thứ Ba, 22 tháng 3, 2011

LẼ SỐNG 22.3

22 Tháng Ba
Trái Tim, Bộ Óc Và Cái Lưỡi


Một ngày kia, trái tim, bộ óc và cái lưỡi đồng ý với nhau là sẽ không bao giờ nói những lời đơn sơ nhỏ bé nữa.

Trái tim phát biểu: "Những lời đơn sơ nhỏ bé chỉ làm bận rộn ta thôi. Chúng làm cho ta trở nên yếu đuối. Sống trong thời buổi này trái tim phải trở nên cứng rắn, cương quyết, chứ không thể mềm nhũn dễ bị xúc động được".

Bộ óc biểu đồng tình: "Vâng, đúng thế, thời buổi này chỉ có những tư tưởng cao siêu, những công thức tuyệt diệu, những chương trình vĩ đại mới đáng cho bộ óc suy nghĩ tới. Những lời đơn sơ nhỏ bé chỉ làm mất thời giờ, mà thời giờ là vàng bạc".

Cái lưỡi nghe trái tim và bộ óc nói thế không khỏi hãnh diện và tự cảm thấy mình trở nên rất quan trọng, mặc dù lưỡi chỉ là bộ phận bé nhỏ của thân thể, vì thế lưỡi cũng hội ý: "Hai anh quả thật đã đạt được tột đỉnh của sự khôn ngoan. Nếu hai anh nghĩ thế thì, tôi sẽ chỉ nói những danh từ chuyên môn, những câu nói văn hoa bóng bẩy, những bài diễn văn sâu sắc, hùng hồn".

Như đã đồng ý, kể từ dạo ấy, trái tim chỉ gửi lên lưỡi những lời nói cứng cỏi, bộ óc chỉ sản xuất và gửi xuống lưỡi những tư tưởng cao siêu và lưỡi sẽ không còn nói những lời đơn sơ nhỏ bé nữa.

Với thời gian, mặt đất trở nên tẻ lạnh như cảnh vật vào mùa đông: Không có lấy một chiếc lá xanh, không còn một cánh hoa đồng nội và lòng người cũng trở nên chai đá như những thửa ruộng khô cằn, nứt nẻ trong những tháng hè nóng bức.

Nhưng những ông già, bà cả vẫn còn nhớ những lời đơn sơ nhỏ bé. Ðôi lúc miệng họ vô tình bật phát nói ra chúng. Lúc đầu họ sợ bị bọn trẻ chê cười. Nhưng kìa, thay vì cười chê, những lời nói đơn sơ nhỏ bé lại được truyền từ miệng này sang miệng khác, từ bộ óc này đến bộ óc khác, từ trái tim này qua trái tim nọ. Cuối cùng, chúng xuất phát như những chiếc hoa phá tan lớp tuyết giá lạnh để ngoi lên làm đẹp cuộc đời.

Câu chuyện trên không tiết lộ những lời đơn sơ nhỏ bé là gì, nhưng chúng ta có thể đoán: đó có thể là hai chữ: "Xin lỗi!", thốt lên để xin nhau sự tha thứ.

Hay đó là lời chào vắn gọn: "Mạnh giỏi không?" đồng nghĩa với câu hỏi: "Tôi có thể làm gì được cho anh cho chị không?".

Nhất là hai tiếng : "Cám ơn!" thốt lên chân thành từ cửa miệng của những kẻ được giúp đỡ, của những con người mang công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, hay của những vợ chồng trung tín chia sẻ với nhau những ngọt bùi, đắng cay của cuộc sống hoặc của những người được bạn bè đỡ nâng sau những thất bại ê trề hay sau những lần vấp ngã.

Trích sách Lẽ Sống
(nguồn : thanhlinh.net)

Thứ Hai, 21 tháng 3, 2011

PHÂN ƯU

PHÂN ƯU

Giáo Xứ THUẬN PHÁT TGP.SAIGON nhận được tin :

Bà Cố MARIA
NGUYỄN THỊ TRÚC

Sinh năm 1933 tại Thanh Hoá

thân mẫu
Cha Giuse Trần Văn Hiển, SDB


đã an nghỉ trong Chúa
lúc 02g50 ngày Chúa Nhật 20.3.2011,
tại tư gia : Dốc Mơ, Xã Gia Tân 1, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.
Hưởng thọ : 78 tuổi

Nghi thức Phát Tang - Tẩn Liệm - Nhập Quan
lúc 17g30 ngày
Chúa Nhật 20.3.2011.

Thánh lễ An Táng lúc 09g00 ngày Thứ Ba 22.3.2011
tại nhà thờ Giáo Xứ Đức Huy,
Giáo hạt Gia Kiệm, GP.Xuân Lộc
và an táng tại Đất Thánh giáo xứ.

Xin được chia sẻ nỗi niềm bùi ngùi, thương nhớ Bà Cố Maria cùng Cha Giuse và tang quyến. Nguyện xin Chúa sớm đón nhận linh hồn Bà Cố Maria về hưởng Nhan Thánh Chúa.

Lm. Gioakim Lê Hậu Hán, Chánh Xứ
và Hội Đồng Mục Vụ
Giáo Xứ Thuận Phát
TGP.Saigon