Thứ Năm, 5 tháng 5, 2011

THƯ CHUNG 2011 CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM

HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
THƯ CHUNG
HẬU ĐẠI HỘI DÂN CHÚA 2010

GỬI TOÀN THỂ CỘNG ĐỒNG DÂN CHÚA VIỆT NAM
Cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương và sự sống 2011

Tựa đề Thư chung
“Cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương và sự sống”
(trích từ Kinh Đức Mẹ La Vang)

Kính gửi: Toàn thể Cộng đồng Dân Chúa Việt Nam


DẪN NHẬP


1. Cử hành Năm Thánh kỷ niệm 350 năm thiết lập hai địa phận tông tòa đầu tiên Đàng Trong và Đàng Ngoài, 50 năm thiết lập Hàng Giáo Phẩm, Giáo Hội tại Việt Nam dâng lời tạ ơn Thiên Chúa và tri ân các bậc tiền nhân, đồng thời nỗ lực đào sâu và làm tăng trưởng đức tin cũng như hâm nóng lại nhiệt tình loan báo Tin Mừng.[1] Trong tâm tình đó, ngày lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, 24.11.2009, cộng đoàn tín hữu Việt Nam đã long trọng khai mạc Năm Thánh tại Sở Kiện thuộc Tổng giáo phận Hà Nội. Sau một năm chuẩn bị, Đại Hội Dân Chúa được tổ chức tại Trung Tâm Mục Vụ thuộc Tổng giáo phận Thành Phố Hồ Chí Minh từ ngày 21 đến 26.11.2010. Cuối cùng, lễ Bế Mạc Năm Thánh được cử hành trọng thể tại Trung Tâm Hành Hương Đức Mẹ La Vang thuộc Tổng giáo phận Huế ngày lễ Hiển Linh 06.01.2011.


2. Để phát huy những thành quả của Năm Thánh, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam gửi đến toàn thể các tín hữu Thư Chung hậu Đại Hội Dân Chúa 2010. Thư Chung này hình thành từ những suy tư, trao đổi và cầu nguyện của toàn thể Dân Chúa Việt Nam, trong nước cũng như hải ngoại, hợp nhất với các mục tử, để định hướng cho đời sống và hoạt động của Giáo Hội tại Việt Nam trong hoàn cảnh hiện nay. Tất cả là để phục vụ Vương Quốc Thiên Chúa, vương quốc sự thật, sự sống, công chính, yêu thương và bình an.[2]


3. Dưới ánh sáng Tin Mừng, Thư Chung này trước hết trình bày sơ lược về hiện trạng quê hương, nơi người Công Giáo Việt Nam đang sống và thực thi sứ vụ của mình. Chương II cho thấy cần phải sống và thể hiện mầu nhiệm Giáo Hội như thế nào trong hoàn cảnh ngày nay theo lời mời gọi của Chúa. Chương III tập trung vào sự hiệp thông trong Giáo Hội được nhìn như gia đình của Thiên Chúa. Chương IV nêu lên những khía cạnh chính yếu trong sứ vụ của Giáo Hội tại Việt Nam ngày nay.


Chương I:
HIỆN TRẠNG XÃ HỘI VIỆT NAM
DƯỚI ÁNH SÁNG ĐỨC TIN

“Cảnh sắc đất trời thì các người biết nhận xét, còn thời đại này, sao các người lại không biết nhận xét”
(Lc 12, 56).

4. Được mời gọi tìm kiếm Thánh ý Thiên Chúa qua những dấu chỉ thời đại, Giáo Hội tại Việt Nam cố gắng lắng nghe, nhận diện và phân định những thực tại xã hội dưới ánh sáng Tin Mừng.


Hiện nay Việt Nam đang hòa nhập vào tiến trình toàn cầu hóa, cụ thể qua việc tham gia các tổ chức khu vực như Khối Các Nước Đông Nam Á (ASEAN) và quốc tế như Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO). Việt Nam thu hút đầu tư của các tập đoàn kinh tế trong và ngoài nước với những kỹ thuật hiện đại, tạo thêm công ăn việc làm cho dân chúng và làm cho đất nước mang dáng dấp một quốc gia đang phát triển.[3] Người dân được tiếp cận với những thông tin và thành quả đa dạng về khoa học kỹ thuật, mở ra những cơ hội cho một phong thái làm việc mới.[4]


Tuy nhiên, vì chưa được chuẩn bị đầy đủ để bước vào tiến trình toàn cầu hóa nên Việt Nam gặp rất nhiều thách đố. Tình trạng lạm phát, tệ nạn tham nhũng và hối lộ, việc quản lý lỏng lẻo và thiếu trách nhiệm đối với những tài nguyên quốc gia… làm cho đời sống người dân thêm khó khăn.[5] Hố phân cách giầu nghèo ngày càng sâu rộng hơn. Nhiều người dân vẫn chưa có mức sống xứng hợp với nhân phẩm, không những tại nông thôn mà ngay cả trong những thành phố lớn. Do đó, vấn đề không chỉ là kinh tế mà còn là vấn đề đạo đức và xã hội.[6]


5. Hiện trạng kinh tế ấy kéo theo nhiều thay đổi trong xã hội Việt Nam. Sinh hoạt làng quê cổ truyền dần dần được thay thế bằng nếp sống đô thị.[7] Dân chúng đổ xô về những thành phố lớn kiếm công ăn việc làm, tạo ra mật độ dân cư chênh lệch giữa nông thôn và thành thị. Đặc biệt tại các thành phố lớn, do tình trạng dân số gia tăng quá nhanh, thiếu chính sách quản lý và phát triển đô thị hợp lý, nên gây nhiều hậu quả tiêu cực trên sinh hoạt xã hội: môi trường sống thiếu vệ sinh và đang bị tàn phá, hệ thống giao thông và y tế yếu kém, nhiều tệ nạn xã hội như nghiện ngập, phá thai, mãi dâm, bạo lực…[8]


Giới trẻ Việt Nam rất năng động, sẵn sàng tham gia những giao lưu và sinh hoạt xã hội. Họ mau chóng nắm bắt những thành quả của công nghệ hiện đại để nâng cao kiến thức và giúp ích cho đời. Tuy nhiên, chủ nghĩa tương đối và hưởng thụ, tình trạng giáo dục bất cập, những cách trình bày chân lý nửa vời trên các phương tiện truyền thông, những chương trình giải trí thiếu lành mạnh… đã đưa nhiều bạn trẻ đến một não trạng và lối sống thực dụng, làm bất cứ điều gì để hưởng lợi, miễn là không bị bắt hay không ai nhìn thấy. Tiêu chuẩn tốt xấu trở thành tương đối và như thế, có dấu hiệu về sự phá sản lương tâm.[9]


6. Nền kinh tế thị trường phần nào đã giúp cho đất nước phát triển. Tuy nhiên, chủ trương tập quyền, những chính sách bất cập và luật pháp chưa nghiêm minh, qui chế ưu đãi cho một thiểu số đặc quyền, nạn tham nhũng, v.v… tạo nên lối sống ích kỷ, đùn đẩy trách nhiệm và thiếu quan tâm đến công ích.[10] Ngoài ra, các tôn giáo cũng như nhiều người thiện chí vẫn chưa có điều kiện pháp lý để đóng góp tích cực vào việc xây dựng đất nước, cách riêng trong lãnh vực giáo dục, y tế và bác ái.


7. Truyền thống văn hóa Việt Nam vẫn đề cao những đức tính như tình gia đình gia tộc, tương thân tương ái, tôn sư trọng đạo… Tuy nhiên, những giá trị đó đang bị đe dọa nghiêm trọng do não trạng duy vật và hưởng thụ, tính cục bộ và óc địa phương hẹp hòi, thói gian dối và lừa đảo, nạn bạo hành…[11] Điều đáng lo ngại hơn cả là phẩm chất giáo dục. Sứ mệnh của giáo dục là đào tạo cho xã hội những con người liêm chính và có tinh thần trách nhiệm, biết phát huy việc học hỏi và suy tư với óc phê phán cũng như khảo cứu cách sáng tạo. Trong thực tế, hiện trạng giáo dục tại Việt Nam khiến nhiều người lo ngại, một số giáo viên chưa thể hiện được chức năng nhà giáo đích thực, môi trường học đường bị ô nhiễm do bệnh thành tích, thương mại hóa…[12] Nền giáo dục tại Việt Nam đang cần đến một triết lý giáo dục nhân bản đích thực và toàn diện.[13]


8. Thừa hưởng truyền thống tôn giáo Á Đông, được biểu lộ qua những hình thức tín ngưỡng đa dạng, người Việt Nam dễ hướng về “Ông Trời” và tôn kính Tổ Tiên. Chính niềm tin đó là nền tảng cho đời sống đạo đức để họ quý trọng sự sống, ăn ở ngay lành và sống hài hòa với mọi người.[14] Tuy nhiên, tâm thức tôn giáo nơi người Việt Nam thường thiên về tình cảm, giới hạn vào một số thực hành nghi lễ và luân lý. Khuynh hướng này dễ đưa đến chủ trương “tương đối hóa tôn giáo”, gây khó khăn cho việc trình bày cũng như lãnh hội giáo lý mạc khải của Kitô giáo.[15] Hơn thế nữa, một khi không được đặt nền trên lý trí khao khát chân lý, tâm tình tôn giáo cũng dễ bị lay động trước những trào lưu duy vật và hưởng thụ.


9. Những phân tích trên cho thấy sự tương tác mật thiết giữa các yếu tố kinh tế, xã hội, văn hóa và đời sống tôn giáo.[16] Một mặt, sự phát triển hiện nay đã tác động sâu rộng trên đời sống đức tin và luân lý. Mặt khác, sự thăng tiến con người toàn diện và sự phát triển bền vững của xã hội phải được đặt nền trên những giá trị đạo đức và tôn giáo.[17]


Đây quả là một thách đố lớn cho đời sống và sứ vụ của Giáo Hội: Làm thế nào có thể thi hành sứ mệnh yêu thương và phục vụ của Đức Kitô giữa những đổi thay không ngừng của xã hội? Làm thế nào có thể chu toàn sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho đại đa số người Việt chưa biết Chúa Giêsu? Tuy nhiên, chính thách đố này lại trở thành cơ hội thuận lợi thúc đẩy Giáo Hội canh tân, “tự vấn lương tâm trong tư cách cộng đồng cũng như trong tư cách cá nhân, xem chúng ta có thể sống đức tin thế nào cho tốt hơn và thi hành hiệu quả hơn sứ mệnh chúng ta đã lãnh nhận từ Chúa Giêsu”.[18] Chính vì thế, trong tác động của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội tại Việt Nam cần xác tín và sống đúng với căn tính của mình, củng cố sự hiệp thông, phát huy nhiệt tình truyền giáo, để chu toàn sứ vụ yêu thương và phục vụ của Đức Kitô trên đất nước này.


Chương II:
MẦU NHIỆM GIÁO HỘI

“Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được”
(Ga 15, 5).

10. Thiên Chúa không muốn cứu rỗi con người riêng rẽ nhưng qui tụ họ thành một dân tộc,[19] một cộng đoàn,[20] một gia đình của Ngài,[21] vượt lên trên những khác biệt về thể lý, chủng tộc, văn hóa.[22] Giáo Hội là Dân Thiên Chúa được tuyển chọn từ ngàn xưa
(x.St 17, 4-7),[23] trở thành dấu chỉ và khí cụ của Thiên Chúa tình yêu giữa lòng lịch sử nhân loại, một lịch sử vốn xen lẫn bóng tối và ánh sáng, đang rên xiết chờ ngày vinh quang của con cái Thiên Chúa được tỏ hiện (x.Rm 8, 19-22).[24]

Giáo Hội thực sự là gia đình của Thiên Chúa, có Thiên Chúa là Cha, có Đức Kitô là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc, và có Chúa Thánh Thần là tình yêu hiệp thông.[25] Các tín hữu là những “người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa”
(Ep 2, 19).[26] Hình ảnh Giáo Hội-Gia Đình gần gũi với tâm thức, kinh nghiệm và suy nghĩ của tín hữu Việt Nam nói riêng và người dân Việt nói chung.[27] Hình ảnh đó trình bày Giáo Hội như một cộng đoàn hợp nhất yêu thương, liên đới, chung tay làm việc, chứ không nặng cơ cấu và luật lệ, nên dễ được đón nhận hơn đối với tâm thức người Việt.[28] Do đó, cần nghiên cứu, suy tư và trình bày Giáo Hội như gia đình của Thiên Chúa, để hội nhập thần học Kitô giáo vào xã hội Việt Nam.[29] Trên nền tảng thần học đó, các mục tử xây dựng những kế hoạch mục vụ “giáo xứ là gia đình của các gia đình”,[30] canh tân cử hành phụng vụ và cầu nguyện trong bầu khí hiệp thông gia đình, cũng như phát triển những hoạt động mục vụ gia đình.[31]

11. Được Lời Chúa qui tụ, Dân Thiên Chúa chỉ có thể được xây dựng vững vàng trên nền tảng Lời Chúa.[32] Được lắng nghe với lòng chân thành và kiên nhẫn, Lời Chúa sẽ trở thành nguồn sống dưỡng nuôi, ánh sáng soi đường và sức mạnh củng cố đức tin của các tín hữu trong mọi hoàn cảnh. Lịch sử Giáo Hội Việt Nam cho thấy các hình thức sống Lời Chúa qua những việc đạo đức truyền thống như Đàng Thánh Giá, Kinh Truyền Tin, Kinh Mân Côi, Kinh cầu nguyện sớm tối, v.v… đã nuôi dưỡng và củng cố đời sống đức tin của bao thế hệ. Những việc đạo đức ấy thật đáng trân trọng và cần bảo tồn cũng như đổi mới và phát huy. Đồng thời, các tín hữu Việt Nam cần làm quen với Lời Chúa hơn nữa. Do đó Giáo Hội tại Việt Nam phải “phát động chương trình mỗi gia đình một cuốn Kinh Thánh được đặt nơi xứng hợp, cổ võ đọc và cầu nguyện với Lời Chúa”,[33] khuyến khích học thuộc lòng những đoạn Kinh Thánh cốt yếu.[34] Mọi thành phần Dân Chúa, giáo dân, chủng sinh, tu sĩ và các mục tử, cần tập thói quen đọc và suy niệm Lời Chúa hằng ngày,[35] đặc biệt theo phương thức Lectio divina.[36]


Cùng với việc học hỏi Lời Chúa, việc dạy và học giáo lý là đòi hỏi tối cần thiết trong đời sống Giáo Hội, nhất là trong thời đại ngày nay đầy rẫy những luồng tư tưởng nghịch với Tin Mừng.[37] Đại Hội Dân Chúa mong mỏi sớm có được những nguyên tắc, đường hướng và chương trình chung, cũng như một thủ bản chung về giáo lý, vừa trung thành với Tin Mừng vừa gần gũi với văn hóa Việt Nam.[38] Đồng thời, Lời Chúa phải là nền tảng cho mọi chương trình thường huấn cũng như đào tạo chủng sinh, tu sĩ, giáo lý viên.[39]


12. Giáo Hội là Nhiệm Thể Đức Kitô, có Đức Kitô là Đầu, Thủ lãnh, nguyên lý sáng tạo, cứu chuộc và thánh hóa.[40] Giáo Hội được chuộc lại không phải bằng vàng bạc, nhưng bằng Máu châu báu của Đức Kitô
(x.1Pr 1, 18-19). Khi được qui tụ và hợp nhất quanh vị giám mục nơi bàn tiệc Thánh Thể, cộng đoàn tín hữu cử hành mầu nhiệm Vượt Qua, thông phần vào sự sống Đức Kitô và được biến đổi nên giống Người,[41] được xây dựng thành cộng đoàn hiệp thông huynh đệ và dấn thân rao giảng Tin Mừng.[42] Như thế, Thánh Thể là trung tâm, nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống và sứ vụ của Giáo Hội.[43] Do đó, các mục tử phải chú tâm đến việc cử hành Thánh Thể thật sốt sắng và xứng đáng, nhất là ngày Chúa Nhật, và hướng dẫn cộng đoàn tham dự Thánh Lễ cách ý thức, tích cực và sống động hơn.[44] Các ngài cũng cần thúc đẩy và canh tân việc sùng kính Thánh Thể, vốn đã từng nổi bật trong truyền thống Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam.[45]

Ý thức về thân phận tội lỗi của mình,[46] các tín hữu cần khiêm nhường thống hối và đón nhận ơn tha thứ qua bí tích Giao Hòa, để xứng đáng là chi thể trong Nhiệm Thể Đức Kitô. Bí tích Giao Hòa vừa là bí tích của hiện tại qua việc tha tội vừa là bí tích của tương lai nhằm xây dựng tình hiệp thông giữa gia đình con cái Thiên Chúa.[47] Ước mong các mục tử luôn quảng đại và sẵn sàng hơn nữa trong việc giúp các hối nhân lãnh nhận bí tích Giao Hòa .[48]


13. Giáo Hội là Đền thờ của Chúa Thánh Thần, được xây trên mười hai cột trụ là các tông đồ của Con Chiên
(x.Kh 21, 14), được trang hoàng bằng muôn vàn ân sủng của Chúa Thánh Thần (x.1Cr 12, 4-11; Rm 12, 4-8), Đấng là nguyên lý hợp nhất, làm phát sinh và thúc đẩy đức ái.[49] Trong đền thờ này, Giáo Hội kết hợp với Chúa Giêsu là Hy Tế chân thật, hiến dâng chính mình làm của lễ thơm tho đẹp lòng Thiên Chúa (x.Rm 12, 1; Kh 8, 3-4; Tv 141, 2), dâng lên Thiên Chúa niềm tri ân và ngợi khen, cùng với những âu lo và hy vọng của toàn thể nhân loại và tạo thành (x.Ep 5, 20; Pl 4, 6-7). Cộng đoàn tín hữu Việt Nam cần phải chú ý nhiều hơn nữa đến việc vun trồng đời sống nội tâm, nhấn mạnh chiều kích thiêng liêng trong mọi chương trình huấn luyện cũng như mục vụ. Như vậy, mọi thành phần trong Giáo Hội được kêu gọi nên thánh, vươn đến đức ái trọn hảo, theo gương khiêm nhường và phục vụ của Đức Kitô. Thật vậy, nếu Giáo Hội Việt Nam hãnh diện có 117 Thánh Tử Đạo chuyển cầu cho mình cạnh Tòa Chúa, thì hơn bao giờ hết, Giáo Hội cần đến sự thánh thiện của con cái mình, những tín hữu can đảm sống Tin Mừng trong mọi môi trường làm việc giữa đời thường.[50] Chính qua cách sống đó, lễ dâng của Giáo Hội được tiếp tục cử hành trong đời sống các tín hữu.

14. Theo khuôn mẫu Ngôi Lời nhập thể, Giáo Hội mang đặc tính vừa thần linh vừa nhân loại, trong đó những yếu tố nhân loại phải qui hướng và lệ thuộc yếu tố thần linh.[51] Giáo Hội không phải là thực thể duy linh cũng không phải là một tổ chức thuần túy nhân loại, nhưng nơi Giáo Hội, “cái hữu hình là dấu chỉ và dụng cụ của cái vô hình, còn cái vô hình được nhập thể trong cái hữu hình”.[52] Vì thế, Giáo Hội được gọi là bí tích cứu độ. Như vậy, phẩm trật và nhiệm cục bí tích thuộc về yếu tính của Giáo Hội. Trong chiều hướng đó, các tín hữu Việt Nam phải vượt qua lối sống đạo “vụ hình thức”, đồng thời cần hiểu đúng ý nghĩa “đạo tại tâm”.[53] Vì là một thực tại tôn giáo chứ không phải thực tại chính trị hay kinh tế, nên Giáo Hội không bao giờ tìm cách thay thế chính quyền, nhưng chỉ mong muốn sử dụng tất cả khả năng để phục vụ Thiên Chúa và con người.[54] Đàng khác, Giáo Hội rất quan tâm đến sự thăng tiến nhân bản của các tín hữu và đồng bào của mình, xem đó là thành phần thiết yếu trong việc phát triển con người toàn diện và phát triển vững bền của xã hội.[55] Giáo huấn này phải hướng dẫn và chi phối mọi nỗ lực canh tân đời sống cầu nguyện cũng như các kế hoạch về truyền giáo, công bằng xã hội và giáo dục.


15. Cũng trong ánh sáng mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, Giáo Hội ý thức rằng hội nhập văn hóa và tính bản địa là đòi hỏi nội tại của đức tin Kitô giáo.[56] Một khi đã đón nhận Tin Mừng, Giáo Hội địa phương có trách nhiệm làm cho Tin Mừng thấm nhuần các giá trị văn hóa trong dân tộc mình.[57] Tiến trình này không xóa bỏ nhưng thanh lọc và làm cho bản sắc dân tộc thêm phong phú nhờ các giá trị Tin Mừng, nhất là giá trị của tình yêu thương “đến cùng”, yêu thương “ngay cả kẻ thù”.[58]


Theo đường hướng đó, Giáo Hội Việt Nam phải nghiên cứu tường tận bản sắc văn hóa dân tộc, hầu có thể phân định những gì là tốt đẹp,[59] để diễn tả đức tin bằng những nét văn hóa ấy đồng thời đem tinh thần Phúc Âm thấm vào các sinh hoạt văn hóa, cụ thể như các dịp lễ tết và ma chay cưới hỏi.[60] Cũng thế, cần khuyến khích và hướng dẫn các văn nghệ sĩ Công Giáo trong các sáng tác của họ. Ngoài ra, những chương trình huấn luyện ở mọi cấp phải quan tâm đến việc học hỏi về hội nhập văn hóa.[61]


16. Giáo Hội là bí tích của Nước Thiên Chúa nơi đó Thiên Chúa là tất cả cho mọi người
(x.1Cr 15, 25-28; Ep 1, 21-22), nên phải luôn ý thức rằng chỉ một mình Thiên Chúa mới làm cho Nước Trời đạt tới viên mãn; vậy Giáo Hội không ngừng cầu xin cho “Nước Cha trị đến” (Lc 11, 2; Mt 6, 10). Đồng thời, Giáo Hội cũng là “Nước Chúa trong trạng thái hạt mầm”, là “Nước Chúa đang tăng trưởng”.[62] Vì thế, Giáo Hội có sứ mệnh yêu thương và phục vụ, hướng dẫn nhân loại đạt tới hạnh phúc chân thật.[63] Các môn đệ Đức Kitô “không hề coi thường các thực tại nhân sinh”,[64] nhưng “sẵn sàng cộng tác tích cực với mọi người xây dựng trần thế”,[65] vì tất cả những gì tốt lành và thiện hảo sẽ không bị phá hủy mà được nên hoàn hảo trong Nước Chúa vĩnh cửu và phổ quát.[66] Không có sự đối kháng giữa niềm chờ mong Nước Chúa và nỗ lực xây dựng trần thế, do đó phải tránh xa quan niệm và lối sống phân cách giữa đức tin và đời sống hàng ngày.[67] Cũng vì thế, cần phải cảnh giác trước mọi hình thức tội lỗi và can đảm vượt thắng chủ nghĩa tục hóa, óc cục bộ và vô tín, bởi vì những điều ấy hạ thấp phẩm giá con người.[68] Như vậy, Giáo Hội đồng hành với thế giới như một ngôn sứ, chia sẻ những khổ đau và vui buồn của nhân sinh, can đảm chống lại sự ác dưới mọi hình thức, vì hạnh phúc toàn diện của con cái Thiên Chúa, và kiên trì khơi lên nơi lòng người niềm hy vọng vào Thiên Chúa tín trung.[69]

17. Đang khi mong chờ Ngày Đức Kitô lại đến và trong nỗi khát khao được kết hợp trọn vẹn với Thiên Chúa, Giáo Hội sống thời gian hiện tại trong tình hiệp thông với Giáo Hội Thiên Quốc và những chi thể đã ra đi trước. Người giáo dân Việt Nam luôn yêu mến nhìn lên Đức Maria với tình con thảo và dành cho Mẹ lòng tôn kính đặc biệt. Trải qua những giai đoạn thăng trầm của lịch sử, Giáo Hội tại Việt Nam luôn tin tưởng kêu xin ơn phù hộ của Đức Nữ Vương uy quyền, cũng như sự trợ giúp của Thánh Cả Giuse và lời chuyển cầu của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Tuy nhiên, lòng sùng kính Đức Maria và các thánh cần được đặt trên nền tảng Kinh Thánh và giáo lý vững chắc, tránh những hình thức quá nặng tình cảm. Đồng thời người Công Giáo Việt Nam cần biểu lộ lòng hiếu thảo với ông bà tổ tiên đúng theo giáo huấn của Giáo Hội và hợp với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.


18. Trong thân phận lữ hành, Giáo Hội không thể tránh khỏi những khó khăn, thử thách, và ngay cả bách hại. Tuy nhiên thay vì bi quan, thù hằn hay sợ hãi,[70] các tín hữu được mời gọi khám phá ở đó những ơn lành của Thiên Chúa: được nên giống Đức Kitô, được chia sẻ Chén và Phép Rửa của Người
(x.Mc 10, 38-39), và được thanh luyện nên Hiền Thê trung tín của Người (x.Ep 5, 25-27; Kh 19, 8; 21, 9b-11). Thật vậy, “dù gian truân, khốn khổ, đói rách, bắt bớ v.v…, không điều gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu” (Rm 8, 39). Hơn nữa, bằng chính kinh nghiệm lịch sử của mình, Giáo Hội tại Việt Nam làm chứng cho chân lý Phúc âm: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12, 24). Máu của các chứng nhân tử đạo thực sự là “hạt giống trổ sinh các Kitô hữu” (Tertullianô).

19. Tóm lại, chúng ta tuyên xưng Giáo Hội là công trình của tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi.[71] Từ Ngài, Giáo Hội sinh ra; nhờ Ngài, Giáo Hội hoạt động; và hướng tới Ngài, Giáo Hội dấn bước.[72] Chỉ một mình Thiên Chúa mới nắn đúc nên Giáo Hội theo lòng Ngài mong ước.[73] Qua cuộc hành trình thiêng liêng của Năm Thánh 2010, chính Chúa Thánh Thần đốt nóng và canh tân lòng trí chúng ta để sống mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô, xây dựng tình hiệp thông sâu xa trong Giáo Hội và đi tới những biên cương mới của sứ vụ.

Chương III
HIỆP THÔNG TRONG GIA ĐÌNH CỦA THIÊN CHÚA

“Để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con”
(Ga 17, 21).

20. Cộng đoàn các môn đệ được Chúa Giêsu thiết lập tiên vàn là để ở với Người
(x.Mc 3, 14), lắng nghe Người (x.Lc 10, 39) và chia sẻ đời sống với Người (x.Ga 1, 39). Trong Chúa Thánh Thần, chúng ta nên một với Đức Kitô và nhờ Người, nên một với Thiên Chúa Cha. Từ đó, chúng ta nên một với nhau làm thành Giáo Hội. Mầu nhiệm hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi vừa là suối nguồn vừa là mẫu mực và cùng đích của hiệp thông trong Giáo Hội.[74] Theo giáo lý truyền thống, hiệp thông là thông phần cùng một Chúa Thánh Thần, thông dự các thực tại thánh, và thông công giữa các thánh. Như thế, nguồn mạch và nền tảng cơ bản cũng như điều kiện thiết yếu cho sự hiệp thông giữa các tín hữu trong Giáo Hội, chính là sự hiệp thông với Thiên Chúa. Không kết hợp với Thiên Chúa thì không thể nói đến hiệp thông trong Giáo Hội được.[75] Đồng thời, sự hiệp thông hữu hình trong cùng một giáo lý các tông đồ, cùng một cử hành bí tích và cùng một tổ chức phẩm trật, là dấu chỉ và khí cụ của sự hiệp thông vô hình với Thiên Chúa.[76]

21. Sự hiệp thông trong yêu thương giữa các tín hữu là hoa quả của Chúa Thánh Thần
(x.Rm 14, 17; Gl 5, 22-23) và là dấu chỉ hữu hình của sự hiệp thông với Thiên Chúa, vì “ở đâu có tình yêu thương, ở đó có Thiên Chúa”.[77] Đức tin công giáo và tông truyền đòi hỏi Giáo Hội tại Việt Nam hiệp thông với Giáo Hội phổ quát và hợp nhất với Đức Giáo Hoàng là đầu mối của đức ái, là nguyên lý và nền tảng hữu hình, trường tồn của sự hợp nhất trong Giáo Hội.[78]

22. Hiệp thông với Giáo Hội phổ quát, Giáo Hội tại Việt Nam củng cố và phát huy sự hiệp thông với các Giáo Hội chị em, cách riêng tại Châu Á. Sự liên đới với các Giáo Hội tại Châu Á không những thể hiện sự hợp nhất mà Chúa Giêsu đã tha thiết cầu nguyện: “Xin cho họ nên một”
(Ga 17, 21), mà còn làm phong phú kinh nghiệm sống và cách trình bày đức tin nhờ những trao đổi suy tư thần học, mục vụ và tu đức.[79] Giáo Hội tại Việt Nam cần tiếp tục vun trồng tình hiệp thông liên đới này bằng nhiều cách thế khác nhau.

23. Sự hiệp thông đích thực và sâu xa trong Giáo Hội cần được thể hiện nơi từng giáo phận cũng như giữa các giáo phận. Qua sự hợp nhất yêu thương giữa mọi thành phần Dân Chúa như trong một gia đình, các cộng đoàn vừa là dấu chỉ vừa là trường dạy hiệp thông. Mối tương quan giữa giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân được đặt nền trên phẩm giá bình đẳng của mọi tín hữu, cũng như tinh thần đồng trách nhiệm của từng tín hữu nơi Thân Mình Đức Kitô trong đức tin, cậy, mến.[80] Đại Hội Dân Chúa mong muốn Giáo Hội tại Việt Nam củng cố sự hiệp thông và tham gia trong đời sống Giáo Hội ở mọi cấp bậc, tạo điều kiện để mọi thành phần Dân Chúa tích cực tham gia vào đời sống và sứ vụ của Giáo Hội”. [81] Trên thực tế, điều này chưa được thể hiện đồng đều và rõ nét ở cấp giáo phận cũng như giáo xứ. Vì thế, việc xây dựng một Giáo Hội hiệp thông và tham gia phải là mối quan tâm mục vụ hàng đầu của Giáo Hội tại Việt Nam trong những năm sắp tới.[82]


24. Xây dựng Giáo Hội hiệp thông và tham gia không hề làm giảm vai trò lãnh đạo của các vị mục tử và hàng giáo phẩm. Lòng yêu mến và kính trọng của tín hữu Việt Nam đối với các mục tử phát xuất từ cảm thức đức tin. Họ gắn bó và hiệp thông với giám mục giáo phận trong tinh thần vâng phục vì xác tín rằng giám mục là “nguyên lý và nền tảng hữu hình của sự hợp nhất trong Giáo Hội địa phương”.[83] Cũng vì thế, trước những trào lưu tư tưởng hiện đại có nguy cơ làm cho đời sống đức tin và luân lý của các tín hữu bị dao động, Dân Chúa tại Việt Nam mong mỏi có được sự hướng dẫn cụ thể và kịp thời từ các giám mục là thầy dạy, là người bảo vệ đức tin và phong hóa.


25. Sự hiệp thông của Giáo Hội còn được biểu lộ qua sự chia sẻ trách nhiệm của hàng giáo sĩ với giám mục của mình, như chu toàn các phận vụ được trao, hòa nhập vào đường hướng mục vụ chung của giáo phận và Giáo Hội. Về phần mình, các giám mục nên quan tâm đồng hành, lắng nghe và nâng đỡ các linh mục. Cũng trong tinh thần này, cần khích lệ và cổ võ sự liên đới tương trợ giữa các giáo phận về nhân lực cũng như tài lực.


26. Lịch sử Giáo Hội Việt Nam cho thấy vai trò quan trọng và sự đóng góp tích cực của các tu sĩ, những anh chị em tận hiến đời mình để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân, nhất là những người nghèo khổ và bị bỏ rơi, bằng một tình yêu vô vị lợi. Trong hoàn cảnh hiện nay, để phát huy tình hiệp thông và tham gia trong Giáo Hội, các tu sĩ cần hòa nhập những hoạt động tông đồ của mình vào chương trình mục vụ chung của các giáo phận, nơi họ đang hiện diện và phục vụ. Sự hợp tác hài hòa giữa giáo phận, giáo xứ và dòng tu, cần được khuyến khích và cổ võ, nhằm đáp ứng những nhu cầu đa dạng của Dân Chúa và xã hội.


27. Công đồng Vatican II đã mở đường cho sự tham gia đa dạng của giáo dân vào đời sống Giáo Hội, ngay cả trong việc đào tạo linh mục. Giáo Hội khắp nơi đều thu lượm được nhiều hoa quả từ định hướng này. Trong đời sống Giáo Hội tại Việt Nam, giáo dân đã và đang góp phần thật phong phú và quảng đại cho đời sống và sứ vụ của Giáo Hội, như mang Tin Mừng của Chúa đến những vùng xa xôi hẻo lánh, chia sẻ công sức tiền của, nhất là những lời cầu nguyện và bao hy sinh âm thầm để xây dựng sự hưng thịnh và sinh động của cộng đoàn Dân Chúa. Thật đáng trân trọng những đóng góp quý giá đó, nay Giáo Hội cần quan tâm hơn đến việc phát huy phẩm chất của giáo dân bằng cách tổ chức các khóa huấn luyện về thần học, giáo lý, Kinh Thánh, mục vụ.[84] Đồng thời, cần canh tân những đường hướng và qui chế tổ chức giáo phận và giáo xứ, để giáo dân có cơ hội thực thi những quyền chính đáng và trách nhiệm của mình trong Giáo Hội.[85]


28. Cũng thế, trong đời sống Giáo Hội tại Việt Nam, nữ giới đã và đang góp phần tuy âm thầm nhưng rất quan trọng trong việc xây dựng Dân Chúa. Tuy nhiên, quan niệm ‘trọng nam khinh nữ’ ít nhiều vẫn tồn tại. Điều này không tương hợp với lời thánh Phaolô: “không còn nam hay nữ, nhưng tất cả chỉ là một trong Đức Kitô”
(Gl 3, 28). Vì vậy, Giáo Hội tại Việt Nam cần đề cao vai trò của phụ nữ và tạo điều kiện giúp họ thăng tiến, tích cực tham gia các sinh hoạt của giáo xứ, giáo phận.[86]

29. Theo gương Chúa Giêsu, Đấng luôn ưu ái những người trẻ, Giáo Hội hoàn vũ đang nỗ lực mời gọi người trẻ cộng tác và tham gia vào đời sống cộng đồng Dân Chúa. Tại Việt Nam, Giáo Hội nên nghiên cứu và mạnh dạn tổ chức những cử hành phụng tự thích hợp, khuyến khích giới trẻ tham gia vào các hội đoàn và những sinh hoạt cộng đồng, để ngày càng có thêm nhiều người trẻ quảng đại và can đảm, sống đức tin cách sinh động và trưởng thành. Công việc mục vụ đó cần được chuẩn bị chu đáo bằng việc giáo dục đức tin và nhân bản cho thiếu nhi. Nhờ đời sống thiêng liêng vững mạnh, giới trẻ Công Giáo sẽ góp phần tích cực và bền vững vào việc lành mạnh hóa xã hội hay dấn thân truyền giáo tại những nơi xa xôi.[87]


30. Lịch sử cứu độ đạt đến cùng đích khi Thiên Chúa thâu họp tất cả trong Đức Kitô
(x.1Cr 15, 23-24).[88] Giáo Hội lữ hành chính là hoa quả đầu mùa của sự hiệp thông cánh chung đó. Thật vậy, khi mọi thành phần trong gia đình Giáo Hội nỗ lực sống hợp nhất trong đức tin và hiệp thông trong đức ái, thì chính đó đã là một lời chứng hùng hồn cho Tin Mừng hiệp thông.[89] Vì thế, mọi thành phần Dân Chúa phải cộng tác với nhau, trong tác động của cùng một Chúa Thánh Thần, để xây dựng Giáo Hội như “dấu chỉ và khí cụ của sự hợp nhất giữa Thiên Chúa với con người cũng như giữa con người với nhau”.[90] Đây cũng là chìa khóa của việc thi hành và chu toàn sứ mệnh được trao phó cho Giáo Hội.[91]

Chương IV
LOAN BÁO TIN MỪNG
TRONG HOÀN CẢNH NGÀY NAY


“Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”
(Ga 20, 21).

31. Giáo Hội nhận lãnh cùng một sứ vụ mà Đức Kitô lãnh nhận từ Chúa Cha
(x.Ga 20, 21) là loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Sứ vụ này làm nên chính lý do hiện hữu của Giáo Hội giữa lòng thế giới.[92] Vì vậy, khi đón nhận Tin Mừng, Giáo Hội tại Việt Nam cũng nhận lãnh sứ vụ loan báo Tin Mừng Đức Kitô cho từng người và mọi người, nhờ đó họ khám phá ý nghĩa đời sống và được lớn lên như những con người mới.[93] Nhận thức đức tin này khiến Đại Hội Dân Chúa nhấn mạnh rằng “thay vì coi truyền giáo chỉ như một trong những hoạt động của Giáo Hội, thì nay cần nhìn sứ mệnh truyền giáo như nắm men thấm nhập, khơi dậy và chi phối mọi khía cạnh đời sống Giáo Hội”.[94] Do đó, cần dành mọi nỗ lực và hoạt động, từ vật chất đến thiêng liêng và mục vụ, cho mục tiêu này.

32. Sứ vụ này mang tính duy nhất và toàn diện. Duy nhất, vì tất cả đều khởi đi và quy hướng về con người Đức Giêsu Nadaret và mầu nhiệm của Người.
Người là Con Thiên Chúa, Đấng vừa khai mở vừa là hiện thân của Vương Quốc Thiên Chúa qua mầu nhiệm Khổ Nạn và Phục Sinh. Vì thế, khi thi hành sứ vụ nhất thiết phải công bố Danh Chúa Giêsu.[95] Toàn diện, vì sứ vụ bao gồm nhiều hoạt động: công bố Tin Mừng lần đầu tiên (kerygma), huấn giáo nhằm xây dựng sự trưởng thành đức tin, đem tinh thần Phúc Âm thấm nhập mọi lãnh vực đời sống xã hội và văn hóa.[96] Do đó có mối liên hệ mật thiết giữa sứ vụ loan báo Tin Mừng và việc phục vụ sự sống cùng sự phát triển con người toàn diện.[97] Chính Chúa Giêsu dạy Giáo Hội hướng đi này. Cho dù mối quan tâm hàng đầu của Người là rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu cũng quan tâm đến công bằng xã hội và nhu cầu vật chất của dân chúng. Như thế, Tin Mừng của Người liên kết mật thiết với sự phát triển những giá trị nhân linh, và không hề tách rời đức tin khỏi cuộc sống. Trong bối cảnh xã hội hiện nay, Giáo Hội tại Việt Nam xác tín rằng Dân Chúa cần tích cực cộng tác với mọi người thiện chí, cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương và sự sống. Đó là phương thế cụ thể để thi hành sứ vụ duy nhất và toàn diện của Đức Kitô trên đất nước này.

33. Là công dân trong một đất nước, người Công Giáo Việt Nam có bổn phận yêu mến và xây dựng quê hương. Đồng thời, chúng ta thi hành bổn phận này với tinh thần Phúc Âm, khi thể hiện chức năng tiên tri bằng tiếng nói chân thành và có trách nhiệm, “thực thi yêu thương trong chân lý và thực thi chân lý trong yêu thương”.[98] Theo ý nghĩa đó, Đức Bênêđictô XVI nhắn nhủ các tín hữu Việt Nam: “Bằng đời sống xây nền trên đức ái, sự liêm chính, việc quý trọng công ích, anh chị em phải chứng tỏ rằng là người Công Giáo tốt cũng là người công dân tốt”.[99]


Để thực hiện lời mời gọi này, các tín hữu cần thấu triệt giáo huấn của Giáo Hội về xã hội.[100] Giáo huấn này sẽ soi sáng cho các tín hữu biết cách yêu mến quê hương, yêu thương mọi người không trừ một ai, quan tâm phát triển nhân bản và văn hóa, xây dựng công bằng, tình liên đới, sự bình đẳng và tự do tôn giáo qua nẻo đường hiền lành và khiêm nhường, bao dung và tha thứ.[101] Định hướng này sẽ mở đường cho những chương trình mục vụ của Giáo Hội tại Việt Nam, đặc biệt cho thiếu nhi, giới trẻ và di dân.[102] Như Đức Kitô, Giáo Hội không bao giờ thỏa hiệp với tội lỗi và bất công, nhưng đồng thời yêu thương hết thảy mọi người, với lòng nhân hậu xót thương của Thiên Chúa. Các tín hữu của Chúa Giêsu phải lấy việc lành mà vượt thắng lối sống bạo lực, ích kỷ, hưởng thụ và phóng túng
(x.Rm 12, 9-21; 1 Pr 3, 15-16; 4, 3-4).

34. Để chu toàn sứ vụ duy nhất và toàn diện của Giáo Hội, mỗi tín hữu, theo ơn gọi riêng của mình, đều phải dấn thân loan báo Tin Mừng. Tuy nhiên, vì sứ vụ của Giáo Hội cốt yếu mang tính cộng đoàn, nên không một tín hữu nào có thể thi hành sứ vụ cách riêng lẻ. Chính vì thế, các tín hữu Việt Nam, cá nhân cũng như cộng đoàn, phải tích cực tham gia vào cùng một kế hoạch chung mà giám mục địa phương hợp nhất với Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã đề ra và chịu trách nhiệm chính. Đồng thời, “cần phải có sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa các giáo phận, giữa các giáo phận và các dòng tu, cũng như giữa các dòng tu với nhau”.[103]


35. Ngoài ra, mọi thành phần Dân Chúa cần ý thức về mối tương quan sâu xa giữa đời sống chiêm niệm và hoạt động tông đồ. “Sứ vụ là hoạt động có tính chiêm niệm và là chiêm niệm mang tính hoạt động”.[104] Thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng là chia sẻ tặng phẩm quí giá nhất mà chúng ta đã lãnh nhận, đó là được biết Đức Kitô
(x.Pl 3, 8). Như vậy, sứ vụ ấy trước hết là sự cảm nghiệm về Thiên Chúa đang sống và hoạt động trong mình, điều đó thôi thúc chúng ta phục vụ sự sống và phát triển con người toàn diện, từ thể lý đến tâm linh, từ văn hóa và xã hội đến đức tin và luân lý. Do đó, cần cảnh giác trước những cám dỗ lôi cuốn chúng ta rơi vào khuynh hướng đề cao hoạt động mà không quan tâm đến việc vun trồng đời sống nội tâm.

36. Chúa Giêsu đã thi hành sứ vụ với cung cách đặc biệt. Là Tiên Tri trung thành của chân lý Tin Mừng
(x.Kh 1, 5), Người can đảm và kiên nhẫn kêu mời mọi người sám hối và sống theo ý định của Thiên Chúa (x.Mc 10, 2-12; Lc 13, 10-17). Là Tôi Tớ, Người khiêm nhường phục vụ nhân loại (x.Ga 13, 1-16; Lc 22, 27) đến độ hiến thân trên thập giá (x.1Pr 2, 22-24), biểu lộ uy quyền hiển trị của Thiên Chúa tình yêu. Là Tư Tế đích thực và là vị Trung Gian giầu lòng xót thương (x.Dt 4, 14-15; 9, 11-14), Người cùng sẻ chia mọi sự với gia đình nhân loại để dâng lên Chúa Cha những đau khổ, ưu sầu cũng như hạnh phúc và niềm vui của họ (x.Dt 4, 15; 2 Cr 8, 9).

Theo gương Chúa Giêsu, chúng ta cần thi hành sứ vụ với cung cách của Người: can đảm và kiên trì loan báo chân lý Tin Mừng, khiêm nhường phục vụ, chân thành chia sẻ mọi nỗi niềm của con người, nhất là những người nghèo khổ.[105] Con người ngày nay không chỉ đón nhận Tin Mừng bằng cách “nghe” nhưng còn bằng cách “thấy”.[106] Vì thế, Đại Hội Dân Chúa đề nghị: trong các chương trình huấn luyện nhân sự ở mọi cấp, cách riêng huấn luyện chủng sinh, tu sĩ nam nữ, vấn đề không chỉ là trau dồi kiến thức nhưng còn là hình thành một cung cách sống và phục vụ của sứ giả Tin Mừng.[107]


37. Để thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng trong hoàn cảnh xã hội ngày nay, Đại Hội Dân Chúa quan tâm đặc biệt đến lãnh vực giáo dục. Chúng tôi đề nghị chính quyền mở rộng cánh cửa cho các tôn giáo và những người thành tâm thiện chí tham gia vào việc giáo dục học đường “là chìa khóa cho tương lai tươi sáng của đất nước”.[108] Giáo Hội Công Giáo có thể cống hiến cho xã hội triết lý và kinh nghiệm giáo dục của mình, nhằm đào tạo những con người có trách nhiệm với bản thân, với tha nhân và xã hội. Đồng thời, Giáo Hội mong ước các cộng đoàn Kitô hữu, gia đình cũng như các đoàn thể, giáo xứ cũng như các dòng tu, hãy hết sức quan tâm đến giáo dục, hỗ trợ những học sinh nghèo, nâng cao trình độ học vấn của giới trẻ, dạy nghề cho giới trẻ miền quê, đồng hành với giới giáo chức Công Giáo.[109]


Vượt xa việc chuẩn bị nghề nghiệp hay đóng khung trong học đường, giáo dục dẫn con người tới Đức Kitô, Con Người Hoàn Hảo.[110] Chính vì thế, “giáo dục đức tin phải là sợi chỉ xuyên suốt, là tinh hoa và cùng đích của hết thảy nỗ lực giáo dục gia đình, học đường và xứ đạo”.[111] Nền giáo dục như thế sẽ giúp người thụ giáo lắng nghe Thiên Chúa và tìm ra được ơn gọi của mình trong kế hoạch của Ngài.[112]


38. Cách đặc biệt, Giáo Hội xác tín rằng việc giáo dục lương tâm cho mọi người là hết sức cần thiết. Theo đề nghị của Đại Hội Dân Chúa, “các giáo xứ cần quan tâm đến nền giáo dục đại chúng về lương tâm, những giá trị nhân bản và văn hóa đối thoại, dưới ánh sáng Lời Chúa”.[113] Với lương tâm ngay chính, họ thoát khỏi chủ nghĩa tương đối về luân lý và sống đúng ơn gọi làm người của mình, giúp họ sống đạo cách ý thức và trưởng thành hơn. Ngoài ra, quyết định sống tốt một cách can đảm sẽ là một thông điệp mời gọi người khác cũng quyết định sống tốt.


39. Trong bối cảnh của xã hội Việt Nam, khi thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng, Giáo Hội cần đối thoại với các tôn giáo, với người nghèo, và với những anh chị em không tôn giáo. Đây là cuộc đối thoại từ trái tim đến trái tim nhằm xây dựng sự hiểu biết lẫn nhau và phục vụ hạnh phúc đích thực của con người. Đó cũng là cuộc đối thoại phục vụ ơn cứu độ.[114]


40. Cuộc đối thoại với các tôn giáo sẽ giúp Giáo Hội tại Việt Nam xác tín hơn nữa vào tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng đang dẫn dắt mọi người tới Chân Lý toàn vẹn
(x.Ga 16,13) . Tại Việt Nam, chúng ta nhận thấy đức bác ái của đạo Công Giáo đã gặp gỡ lòng từ bi của Phật Giáo, cảm thức tâm linh của Đạo Giáo, triết lý xã hội của Khổng Giáo và lòng mộ đạo bẩm sinh của người dân Việt: luôn tôn kính Trời, thực hành Đạo Hiếu, bày tỏ lòng biết ơn đối với các đấng sinh thành cũng như đối với các bậc anh hùng dân tộc…[115] Đồng thời, đối thoại cũng giúp Giáo Hội rộng mở hợp tác với các tôn giáo trong công cuộc lành mạnh hóa xã hội và thăng tiến con người. Hơn thế nữa, đây còn là cơ hội để Giáo Hội canh tân lòng tin của mình vào Đức Kitô là Khởi Nguyên và Cùng Đích của toàn thể lịch sử nhân loại.[116] Ý thức tầm quan trọng của cuộc đối thoại với các tôn giáo, trong những năm sắp tới, Giáo Hội phải lưu tâm hơn nữa đến chiều kích này trong việc đào tạo nhân sự cũng như trong các hoạt động mục vụ.[117]

41. Sứ vụ loan báo Tin Mừng mời gọi các tín hữu quảng đại phục vụ con người, nhất là những người nghèo khổ và bị bỏ rơi. Chính Chúa Giêsu dành tình ưu ái đặc biệt cho những kẻ bé mọn. Việc đối thoại với người nghèo giúp cho Giáo Hội học được cách nhìn của Đức Kitô, khám phá nơi con người nhu cầu cần được yêu thương và tôn trọng chứ không chỉ là được ban phát của cải vật chất.[118] Đồng thời, Giáo Hội cũng nhận ra được những hình thức mới của sự nghèo khổ, bén nhạy trước những đổi thay của xã hội để kịp thời đáp ứng dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.[119] Theo gương Chúa Giêsu, Giáo Hội tại Việt Nam cần quan tâm đặc biệt đến những dân tộc ít người là những anh chị em còn phải chịu nhiều thiệt thòi về kinh tế, xã hội cũng như văn hóa. Các bệnh nhân, những người tàn tật, già yếu, neo đơn, mồ côi, những thiếu nữ lầm lỡ, các tù nhân… cũng là những thành phần cần được chăm sóc nhiều hơn trong các hoạt động mục vụ. Các cộng đoàn Kitô hữu cần tìm cách thể hiện tình yêu thương phục vụ họ cách cụ thể, đồng hành với họ trong những khó khăn của đời sống, giúp họ nhận ra được niềm vui của đức tin khi được nên giống Đấng chịu đóng đinh và hoàn tất những gì còn thiếu trong cuộc khổ nạn của Người vì Hội Thánh
(x.Cl 1, 24).

42. Trong cuộc đối thoại với anh chị em không tôn giáo, Giáo Hội nhìn nhận những nỗ lực và thiện chí của họ trong việc phục vụ công ích. Các tín hữu cũng nên ý thức phần trách nhiệm của mình trước hiện tượng dửng dưng, tục hóa, duy vật…, vì nhiều khi chúng ta “đã che giấu hơn là bày tỏ khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa và tôn giáo”.[120] Đồng thời, với sự hiền hòa và lòng kính trọng, người Công Giáo “sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của mình”
(1Pr 3,15), thẳng thắn trình bày quan điểm của Giáo Hội trước các vấn đề nhân sinh; nếu cần, sẵn sàng chấp nhận đau khổ để làm chứng cho chân lý Tin Mừng. Ngoài ra, qua cuộc đối thoại chân thành và thẳng thắn, Giáo Hội cũng có thể nhận ra hoạt động mầu nhiệm của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn con người, và học được cách thế trình bày niềm tin của mình cho con người ngày nay.

43. Trước cuộc khủng hoảng gia đình hiện nay, Giáo Hội nhận thấy cần phải tăng cường và canh tân mục vụ gia đình, phải xem mục vụ gia đình là hoạt động quan trọng và nối kết những kế hoạch và chương trình mục vụ của giáo xứ cũng như giáo phận.[121] Thừa hưởng nền văn hóa Đạo Hiếu luôn lấy gia đình làm gốc, chúng tôi kêu gọi anh chị em giáo dân quan tâm xây dựng gia đình mình nên như Giáo Hội tại gia, trở thành trường dạy đầu tiên, nơi đào tạo những thế hệ mới vững mạnh trong đức tin và can đảm sống đạo đức, có trách nhiệm đối với xã hội và Giáo Hội.[122] Để thực hiện mục tiêu này, các giáo phận và giáo xứ cần hình thành một chương trình mục vụ tiền và hậu hôn nhân thống nhất và xuyên suốt, giúp gia đình thăng tiến đời sống cầu nguyện, tăng trưởng tình yêu hợp nhất và chung thủy, ươm mầm các ơn gọi, chung tay giáo dục con cái trong sự thánh thiện và bền vững trong ân sủng của bí tích Hôn nhân.[123]


44. Sống trong một đất nước có tỷ lệ dân số trẻ rất cao,[124] đồng thời kinh nghiệm được về khả năng, sự nhiệt tình và tính năng động của người trẻ, Giáo Hội tại Việt Nam ý thức rằng người trẻ không chỉ là tương lai nhưng còn là chính hiện tại của Giáo Hội. Do đó, mục vụ giới trẻ vừa phải nhìn người trẻ như đối tượng cần được chăm sóc vừa phải xem họ như những chủ thể, sứ giả loan báo Tin Mừng, đặc biệt trong môi trường của giới trẻ.[125] Để thực hiện mục tiêu này, Giáo Hội tại Việt Nam cần đầu tư năng lực và thời giờ hơn nữa cho mục vụ-giáo dục giới trẻ,[126] cách riêng trong hoàn cảnh ngày nay khi người trẻ phải đối diện với nhiều khó khăn cũng như cám dỗ trong cuộc sống. Cần nghiên cứu cách nghiêm túc về tình hình giới trẻ và tìm kiếm những phương thế đồng hành thiết thực với họ trong cuộc sống. Theo hướng đi này, việc đào tạo những linh hoạt viên giới trẻ có tinh thần truyền giáo và biết làm việc tập thể là điều hết sức cần thiết.[127]


45. Đức Bênêđictô XVI đã nhắn nhủ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam: “Mong rằng anh em phát triển nền mục vụ thích hợp cho các người trẻ di dân trong nước, qua việc tăng cường sự hợp tác giữa các giáo phận gốc của họ và các giáo phận họ đến, và bằng việc cung cấp cho họ những lời khuyên về mặt đạo đức và các chỉ dẫn thực hành”.[128] Cảm nhận những khó khăn mà người di cư gặp phải trong các lãnh vực kinh tế, tình cảm, xã hội, tôn giáo…, Đại Hội Dân Chúa cũng đề nghị cần có “một cuốn cẩm nang chung về mục vụ di dân, trong đó hướng dẫn rõ ràng những nét cơ bản cần thiết được các giáo phận nhìn nhận, cách riêng trong lãnh vực hôn nhân và dự tòng”.[129] Đồng thời, chúng ta cũng nhận ra được những ơn lành Chúa ban qua anh chị em di dân trong việc xây dựng Giáo Hội và truyền bá đức tin. Mục vụ di dân phải “tạo điều kiện và thúc đẩy họ tham gia vào đời sống và sinh hoạt của cộng đoàn tín hữu địa phương”,[130] đóng góp những nét đặc sắc của mình vào đời sống và sinh hoạt của xã hội và Giáo Hội.[131]


46. Ngày nay, bảo vệ môi sinh không chỉ là vấn đề kỹ thuật mà còn là một bổn phận luân lý vì liên hệ đến sự sống và phẩm giá của hằng triệu người, trong hiện tại cũng như tương lai. Thiên Chúa đã trao phó vũ trụ cho con người để họ chăm sóc cách khôn ngoan và có trách nhiệm, chứ không phải để khai thác cách tàn bạo vì thèm khát lợi nhuận.[132] Phát triển là để phục vụ con người chứ không thể biến con người thành phương tiện và nạn nhân của phát triển. Do đó Giáo Hội có trách nhiệm hướng dẫn các tín hữu, nhất là người trẻ, biết gìn giữ và bảo vệ môi sinh, vì ích lợi của chính họ, của tha nhân và của cả thế hệ tương lai. Các mục tử nên tổ chức những khóa học về môi sinh cùng với những hướng dẫn cụ thể trong việc gìn giữ và bảo vệ môi trường sinh sống của người dân địa phương.


47. Trong thời đại ngày nay, hơn bao giờ hết, Giáo Hội ý thức được vai trò và tầm quan trọng của các phương tiện truyền thông đại chúng. Một đàng, các phương tiện truyền thông hiện đại là tặng phẩm Chúa ban cho Giáo Hội để loan báo Tin Mừng cách rộng rãi và nhanh chóng,[133] nhưng đàng khác, thực tế cho thấy những phương tiện này có thể bị lạm dụng, tạo ra chia rẽ, hận thù và phóng túng, gieo rắc lối sống đi ngược lại với nền văn minh tình thương và sự sống.[134] Vì thế, Giáo Hội cần hướng dẫn các tín hữu, cách riêng giới trẻ, để họ biết “sử dụng những phương tiện truyền thông cách hữu ích”.[135] Đồng thời, phải “khuyến khích những ai tha thiết với lãnh vực này cùng nhau làm việc” để kiến tạo nền văn minh của tình hợp nhất, tình liên đới và tương trợ trong Giáo Hội và xã hội, bằng cách phổ biến những giá trị Tin Mừng và nhân bản qua các phương tiện truyền thông.[136]


KẾT LUẬN


Thưa anh chị em,


48. Đại Hội Dân Chúa đã được diễn ra như một cử hành phụng vụ để cảm tạ và tôn vinh Thiên Chúa, như một hội ngộ gia đình để sống tình huynh đệ, đồng thời như một diễn đàn, “để các đại diện của mọi thành phần Dân Chúa sử dụng quyền tự do thiêng liêng của con cái Chúa, nói lên những nhận thức của trí tuệ được đức tin soi sáng, những thao thức của trái tim được đức mến nung nấu, và những khát vọng của ý chí được đức cậy khơi dậy, nhằm xây dựng và củng cố ngôi nhà Giáo Hội Chúa Kitô giữa lòng quê hương Việt Nam thân yêu của chúng ta hôm nay và ngày mai”.[137] Chính từ diễn đàn đó mà Thư Chung này được hình thành.


Thư Chung này được gửi đến tất cả anh chị em cùng với lòng biết ơn sâu sắc về lời cầu nguyện, những hy sinh, sự cộng tác nhiệt thành cũng như những góp ý chân thành của anh chị em cho đời sống và sứ vụ của Giáo Hội.


Thư Chung này cũng được gửi đến anh chị em với ước mong mỗi giáo phận, dòng tu, giáo xứ, gia đình, sẽ triển khai thành những hành động và việc làm cụ thể trong đời sống đức tin, góp phần thi hành sứ mệnh loan báo Tin Mừng trong xã hội hôm nay cách thiết thực và hiệu quả.


Chúng ta hãy trao gửi mọi tâm tư ước vọng của mình cho Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, những người đã làm chứng cho Đạo yêu thương bằng đời sống thấm đậm tinh thần cầu nguyện và bằng cả sự hiến dâng mạng sống.[138]


Chúng ta hãy trao gửi mọi dự định mục vụ của Giáo Hội Việt Nam cho Đức Mẹ La Vang. Hợp với Mẹ, chúng ta cất cao lời ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa về mọi hồng ân Chúa ban trong Năm Thánh
(x.Lc 1, 46-55). Hướng lên Mẹ, chúng ta học sống vâng phục Thánh ý Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh (x.Mc 3, 34-35; Lc 11, 28; 1, 38). Noi gương Mẹ, chúng ta vững tin và kiên trì ngay giữa những thử thách và khó khăn mà Giáo Hội phải đương đầu (x.2Pr 1, 5-8; 1Pr 1, 6-9; Dt 11, 32-39; Rm 8, 37). Cùng với Mẹ, chúng ta hăng hái lên đường thi hành sứ mệnh loan báo Tin Mừng, góp phần tích cực vào việc xây dựng nền văn hóa sự sống và văn minh tình thương trên quê hương đất nước chúng ta.[139]

Maranatha, lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến!
(Kh 22, 17, 20; 1 Cr 16, 22)[140]

Thư chung này được chính thức công bố
Ngày 01.05.2011, lễ kính Lòng Chúa Thương Xót, ngày Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II được phong Chân Phước.

Làm tại Trung Tâm Mục Vụ Tổng Giáo Phận TPHCM, ngày 28.04.2011

HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM

Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, Tổng giám mục Tổng giáo phận TP.HCM

Giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh, giáo phận Thanh Hóa, Phó chủ tịch HĐGMVN

Giám mục Laurensô Chu Văn Minh, phụ tá Tổng giáo phận Hà Nội

Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Đệ, SDB, giáo phận Thái Bình

Giám mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp, OP, giáo phận Vinh

Giám mục Giuse Nguyễn Năng, giáo phận Phát Diệm

Giám mục Giuse Đặng Đức Ngân, giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng

Giám mục Gioan Maria Vũ Tất, giáo phận Hưng Hóa

Giám mục Giuse Vũ Văn Thiên, giáo phận Hải Phòng

Giám mục Giuse Hoàng Văn Tiệm, SDB, giáo phận Bùi Chu

Giám mục Giuse Nguyễn Văn Yến, nguyên giám mục giáo phận Phát Diệm

Giám mục Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản, giáo phận Ban Mê Thuột

Giám mục Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng, phụ tá Tổng giáo phận Huế

Giám mục Matthêô Nguyễn Văn Khôi, giám mục phó giáo phận Quy Nhơn

Giám mục Giuse Võ Đức Minh, giáo phận Nha Trang

Giám mục Micae Hoàng Đức Oanh, giáo phận Kon Tum

Giám mục Giuse Châu Ngọc Tri, giáo phận Đà Nẵng

Giám mục Antôn Vũ Huy Chương, giáo phận Đà Lạt

Giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc, giáo phận Mỹ Tho

Giám mục Tôma Vũ Đình Hiệu, phụ tá giáo phận Xuân Lộc

Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm, phụ tá Tổng giáo phận TP.HCM, Phó tổng thư ký HĐGMVN

Giám mục Tôma Nguyễn Văn Tân, giáo phận Vĩnh Long

Giám mục Têphanô Tri Bửu Thiên, giáo phận Cần Thơ

Giám mục Giuse Vũ Duy Thống, giáo phận Phan Thiết

Giám mục Giuse Trần Xuân Tiếu, giáo phận Long Xuyên

Giám mục Tôma Nguyễn Văn Trâm, giáo phận Bà Rịa

Giám mục Đaminh Nguyễn Chu Trinh, giáo phận Xuân Lộc

Giám mục Phêrô Trần Đình Tứ, giáo phận Phú Cường

Giám mục Giuse Nguyễn Tấn Tước, giám mục phó giáo phận Phú Cường

TM. Hội Đồng Giám Mục

(đã ấn ký)
Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Tổng giám mục Hà Nội
Chủ tịch

(đã ký)
Giám mục Cosma Hoàng Văn Đạt, SJ, Giám mục Bắc Ninh
Tổng thư ký

Thứ Ba, 3 tháng 5, 2011

CHÂN PHƯỚC GIOAN PHAOLÔ II

Mời xem VIDEO

Tường thuật thánh lễ phong chân phước

cho Đức Gioan Phaolo II

Lúc 10 giờ sáng Chúa Nhật 1-5-2011 kính Lòng Thương Xót Chúa, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã chủ sự lễ phong chân phước cho Đức Gioan Phaolô II trước thềm đền thờ thánh Phêrô.

Trái với lời tiên đoán thời tiết mưa, trời Roma sáng Chúa Nhật đã có nắng ấm mùa xuân chan hòa rất đẹp. Tham dự thánh lễ phong Chân Phước đã có 87 phái đoàn chính thức từ các nước về Roma dự lễ phong thánh, trong đó có có 16 vị Quốc trưởng, 5 hoàng gia Âu Châu là Bỉ, Tây Ban Nha, Anh, Luxemburg và Liechtenstein. Phải đoàn Italia do tổng thống Giorgio Napolitano và thủ tướng Silvio Berlusconi cầm đầu. Thủ tướng Francois Fillon đại diện cho nước Pháp, Vua Albert II và hoàng hậu Paola đại diện cho nước Bỉ. Quận Công Henri đại diện cho nước Luxembourg. Số tín hữu từ khắp nơi trên thế giới về dự lễ phong chân phước cho Đức Gioan Phaolô II vào khoảng một triệu người.

Đông đảo nhất là tín hữu Italia khoảng 3-4 trăm ngàn người, đa số là các thế hệ đã sinh ra và lớn lên dưới triều đại của Đức Gioan Phaolô II. Ba Lan có 80.000 tín hữu do Hội Đồng Giám Mục hướng dẫn. Pháp có 40.000 tín hữu với 30 Giám Mục. Trong số các tín Pháp có nữ tu Marie Simon Pierre, người đã được phép lạ khỏi bệnh Parkinson nhờ lời bầu cử của Đức Gioan Phaolô II. Các nước khác, mỗi nước cũng từ năm mười ngàn người trở lên. Từ Việt Nam cũng có một phải đoàn do Linh Mục Trương Kim Hương hướng dẫn gồm khoảng 20 người, trong đó có 13 Linh Mục. Từ Anh quốc có phái đoàn 50 người do cha Phaolô Huỳnh Chánh hướng dẫn.

Đã có hơn 2.300 ký giả từ 100 nước đăng ký để theo dõi và tường thuật, trong đó có 1.300 phóng viên các đài truyền hình. Lúc 2 giờ sáng, các nhân viên an ninh đã mở các rào chắn cho tín hữu vào thay vì lúc 5 giờ như dự định.

Quảng trường thánh Phêrô, đại lộ Hòa Giải, lâu đài Thiên Thần, các con đường phụ cận Vatican đầy đặc tín hữu và du khách hành hương, khoảng trên 400.000 người. Những người không thể vào gần hơn đã tìm đến quảng trường thánh Gioan Laterano hay đến Circo Massimo, nơi chiều Thứ Bảy đã có buổi canh thức do Đức Hồng Y Agostino Vallini, Giám Quản Roma chủ sự từ 8g00 cho tới 11g30 tối, với sự tham dự của hơn 100.000 tín hữu. Ở đâu không có màn hình, tín hữu đã theo dõi thánh lễ qua radio và các loại điện thoại cầm tay đời mới như Ipad, Iphone.

Quảng trường Thánh Phêrô được trang hoàng đơn sơ, nhưng rất đẹp. Bên trái có bức hình khổng lồ của Đức Gioan Phaolô cầm gậy mục tử với lời người kêu gọi trong bài giảng thánh lễ khai mào chức vụ Chủ Chăn Giáo Hội hoàn vũ ngày 22 tháng 10 năm 1978: ”Hãy mở toang cửa cho Chúa Kitô”. Phía đối diện bên phải là nhiều bức hình ghi lại các biến cố chính trong triều đại của người, trong đó có buổi liên tôn cầu nguyện cho hòa bình tại Assisi. Ở hai đầu hành lang bao bọc quảng trường có hình bức khảm đá mầu Mater Eccleasiae Mẹ giáo Hội, mà Đức Gioan Phaolô II đã cho đặt trên Dinh Tông Tòa trong Năm Thánh Mẫu.

Thềm đền thờ được trang hoàng như một vườn hoa nhỏ rất dễ thương. Phía bên trái thềm đền thờ Thánh Phêrô được dành cho mấy trăm Hồng Y, Giám Mục và các giám chức, và phía bên phải dành cho các phái đoàn chính thức. Ở bên trái phía chân thềm đền thờ dành cho hơn 5.000 Linh Mục, các bệnh nhân, và người khuyết tật, còn phía bên phải được dành cho ngoại giao đoàn, chính quyền dân sự và khách mời danh dự.

Ngoài các Hồng Y, được đồng tế với Đức Thánh Cha còn có Đức Cha Miệc-Tếk (Mieczyslaw Mokrzycki), Tổng Giám Mục giáo phận Lvov của Công giáo la tinh ở Ucraine, là người kế nhiệm Đức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ trong nhiệm vụ bí thư thứ 2 của Đức Cố Giáo Hoàng từ năm 1995 đến 2005.

Ban giúp lễ gồm các Đại chủng sinh giáo phận Roma và các phó tế sẽ được thụ phong linh mục trong năm nay thuộc Giáo phận Roma. Chén lễ dùng trong thánh lễ cũng là chén mà Đức Cố Giáo Hoàng đã dùng trong những năm cuối của triều đại Giáo Hoàng. Cũng vậy đối với áo lễ và mũ Giám Mục mà Đức Thánh Cha đương kim dùng trong thánh lễ phong chân phước.

Xe díp chở Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã đi một vòng để ngài chào các tín hữu giữa các tràng pháo tay và cờ vẫy trong khi ca đoàn Sistina hát thánh ca nhập lễ.

Sau phần mở đầu lễ và kinh Thương Xót, Đức Hồng Y Agostino Vallini, Giám Quản Roma và Đức Ông Oder, thỉnh nguyện viên phong thánh tiến tới trước mặt Đức Thánh Cha và xin Đức Thánh Cha phong chân phước cho Đức Gioan Phaolô II.

Đức Hồng Y Vallini nói: Lạy Đức Thánh Cha, vị Tổng Giám Quản của Đức Thánh Cha cho giáo phận Roma khiêm tốn xin Đức Thánh Cha ghi vào sổ bộ các Chân Phước, Vị Tôi Tớ Đấng Kinh của Thiên Chúa Gioan Phaolo II. Tín hữu đã vỗ tay khi nghe tên Đức Gioan Phaolô II. Sau đó Đức Hồng Y đã đọc tóm tắt tiểu sử của Đức Gioan Phaolô II.

Đức Karol Wojtila sinh tại Wadovice in Ba Lan ngày 18 tháng 5 năm 1920 là con trai thứ hai của ông Karol WJtila và bà Emilia KacẠđorowska. Năm 1929 bà Emilia qua đời khi Karol mới lên 9 tuổi. Anh cả của Karol là Edmund, bác sĩ cũng qua đời năm 1932. Chị gái là Olga qua đời năm 1914 trước khi Karol chào đời. Thân phụ là hạ sĩ quan cũng qua đời năm 1941. Năm 1938, sau khi hết chương trình trung học tại Wadovice, Karol ghi danh học đại học Jagellónica tại Cracovia. Nhưng năm sau đó Đức quốc xã xâm lăng Ba Lan, Karol phải làm việc trong một hầm đá, và sau đó trong nhà máy hóa học Solvay để sinh sống.

Từ năm 1942 khi cảm thấy tiếng Chúa gọi làm linh mục, Karol theo học các khóa đào tạo của đại chủng viện lén lút do Đức Hồng Y Adam Stefan Sapieha tổ chức. Sau thế chiến thứ II thầy Karol Wojtila được thụ phong linh mục ngày mùng 1 tháng 11 năm 1946, tiếp đến được gửi sang Roma du học, và dọn luận án tiến sĩ thần học về đề tài đức tin trong các tác phẩm của Thánh Gioan Thánh Giá tại đại học giáo hoàng Angelicum. Trong các kỳ hè cha Karol đi làm việc mục vụ cho tín hữu Ba Lan tại các nước Pháp, Bỉ và Hòa Lan.

Sau khi về nước năm 1948 cha Karol làm cha phó hai giáo xứ, rồi làm tuyên úy sinh viên cho tới năm 1951. Sau đó cha làm giáo sư đạo đức học tại đại chủng viện Cracovia và tại phân khoa thần học Lublin. Năm 1958 Đức Giáo Hoàng Pio XII chỉ định cha làm Giám Mục phụ tá Cracovia. Năm 1964 cha được chỉ định làm Tổng Giám Mục Cracovia, và năm 1967 người được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI vinh thăng Hồng Y. Đức Cha Wojtila đã tham dự Công Đồng Chung Vatican II và góp phần hữu hiệu trong việc soạn thảo Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng. Đức Hồng Y Wojtila cũng đã tham dự 5 Thượng Hội Đồng Giám Mục.

Ngày 16 tháng 10 năm 1978 Đức Hồng Y Wojtila được bầu làm Giáo Hoàng lấy tên là Gioan Phaolô II, và ngày 22-10 người đã chính thức khai mạc chức vụ Chủ Chăn Giáo Hội hoàn vũ với lời kêu gọi thời danh: ”Hãy mở cửa cho Chúa Kitô. Còn hơn thế nữa hãy mở toang cửa cho Chúa Kitô”.

Trong 27 năm làm Giáo Hoàng Đức Gioan Phaolô II đã thực hiện 104 chuyên tông du ngoài Italia và viếng thăm 127 quốc gia, cũng như 145 chuyến viếng thăm trong nước Italia và thăm 317 trên 332 giáo xứ của giáo phận Roma.

Trong số các tài liệu quan trọng của người có 14 Thông điệp, 15 Tông huấn, 11 Tông hiến, 45 Tông thư, và 5 cuốn sách. Trong triều đại của mình Đức Gioan Phaolô II cũng đã chủ sự 147 lễ tôn phong chân phước cho 1.338 vi tôi tớ Chúa, và 51 lễ phong hiển thánh cho 482 chân phước. Người cũng đã triệu tập 9 Công Nghị Hồng Y và vinh thăng 231 Hồng Y cộng với 1 vị dấu tên. Người cũng đã chủ tọa 6 phiên họp khoáng đại các Hồng Y.

Từ năm 1978 Đức Gioan Phaolô II cũng triệu tập 15 Thượng Hội Đồng Giám Mục: 6 Thượng Hội Đồng bình thường, 1 ngoai thường và 8 đặc biệt.

Ngày 13 tháng 5 năm 1981 người bị mưu sát tại quảng trường Thánh Phêrô, nhưng đã được Đức Mẹ cứu sống, và người đã tha thứ cho kẻ mưu sát mình.

Sự lo lắng mục vụ cho Giáo Hội của người được diễn tả ra bằng cách thành lập nhiều giáo phận và giáo miền mới, ban hành Bộ Giáo Luật mới cho Giáo Hội Công Giáo Latinh và cho các Giáo Hội Công Giáo Đông Phương, đề nghị với Dân Chúa các thời gian củng cố tinh thần sâu đậm bằng cách công bố Năm Thánh Cứu Độ, Năm Thánh Mẫu và Năm Thánh Thể, cũng như Đại Năm Thánh 2.000. Người tới gần các thế hệ trẻ bằng cách thành lập Ngày Quốc Tế Giới Trẻ.

Đã không có vị Giáo Hoàng nào gặp gỡ nhiều người như Đức Gioan Phaolô II. Đã có hơn 17 triệu 600 ngàn tín hữu hành hương tham dự 1.160 buổi tiếp kiến chung ngày thứ tư hàng tuần, không kể các buổi tiếp kiến đặc biệt và các lễ nghi phụng vụ. Chỉ nội trong Đại Năm Thánh 2.000 đã có hơn 8 triệu tín hữu và du khách hành hương tham dự các lễ nghi tôn giáo do người cử hành. Ngoài ra, còn có các buổi tiếp kiến các nhân vật chính quyền, 38 cuộc viếng thăm chính thức, 738 buổi tiếp kiến hay gặp gỡ các Quốc Trưởng các nước, và 246 buổi tiếp kiến các Thủ Tướng.

Đức Gioan Phaolô II qua đời trong Dinh Tông Tòa tại Roma lúc 21 giờ 37 phút tối Thứ Bảy ngày 02 tháng 4 năm 2005, áp ngày lễ kính Lòng Thương Xót Chúa do chính người thành lập. Thánh lễ an táng trọng thể đã diễn ra tại quảng trường Thánh Phêrô và lễ nghi an táng đã diễn ra tại hầm đền thờ ngày 08 tháng 4 năm 2005.

Tiếp đến Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã đọc công thức phong Chân Phước cho Đức Gioan Phaolô II như sau:

Chấp nhận ước mong của Người Anh Em chúng tôi là Đức Hồng Y Agostino Vallini, Giám Quản giáo phận Roma, của nhiều Anh Em khác trong Hàng Giám Mục, và nhiều tín hữu, sau khi đã có ý kiến của Bộ Phong Thánh, với Quyền Tông Đồ của chúng tôi, chúng tôi chấp thuận rằng Vị Tôi Tớ Đáng Kính của Thiên Chúa Gioan Phaolô II, Giáo Hoàng, từ nay trở đi được gọi là Chân Phước, và có thể cử hành lễ của người hàng năm vào ngày 22 tháng 10 tại các nơi và theo các điều lệ do giáo luật thiết định. Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần Amen.

Mọi người đã hân hoan vỗ tay rất lâu trong khi tấm màn che hình Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolo II ở bao lơn chính giữa đền thờ Thánh Phêrô được từ từ vén lên. Hình Đức Giáo Hoàng nhìn nghiêng tươi vui mỉm cười hóm hỉnh, mắt to mắt bé.

Ca đoàn và cộng đoàn hát ba lần Amen, trong khi đó thánh tích của vị tân chân phước là một ống nhỏ đựng máu của người đã được nữ tu Marie Simon Pierre và nữ tu Tobiana, người đã phục vụ Đức Gioan Phaolô 2, rước lên đặt tại giá cao cạnh bàn thờ. Ống máu nhỏ được gắn ở giữa 4 nhành ô liu bằng bạc.

Đây là 1 trong bốn ống máu đã được các nhân viên y tế lấy trong những ngày cuối cùng của Đức Gioan Phaolô II và được giữ tại nhà thương Chúa Hài Đồng Giêsu, phòng hờ trường hợp phải truyền máu cho ngài, nhưng đã không dùng đến. Máu ở thể lỏng vì chất chống đông tụ. Hiện nay 2 ống do Đức Hồng Y Stanislaw Dziwicz giữ bên Cracovia, ống còn lại do các nữ tu nhà thương Chúa Hài Đồng Giêsu giữ gìn như thánh tích qúy báu.

Các bài đọc phụng vụ đã được tuyên đọc bằng các tiếng Ba Lan và Anh. Thánh vịnh được hát bằng tiếng Ý và Phúc Âm được hát bằng tiếng La Tinh.

Trong bài giảng, Đức Thánh Cha ca ngợi mối phúc thật mà Đức Gioan Phaolô 2 đã nhận lãnh, đó là mối phúc đức tin, lòng kính mến của người đối Đức Mẹ, và công trình của Đức Chân Phước Giáo Hoàng dẫn Dân Chúa tiến qua ngưỡng cửa Ngàn Năm Thứ Ba, và sau cùng là kinh nghiệm bản thân của ngài về vị Tiền Nhiệm. Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến, "Cách đây hơn 6 năm, chúng ta đã tụ họp tại Quảng trường này để cử hành thánh lễ an táng Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Nỗi đau buồn vì sự mất mát thật là sâu đậm, nhưng cũng có một cảm thức lớn lao hơn nữa về một ân phúc vô biên bao trùm Roma và toàn thế giới: ân phúc ấy như là thành quả trọn cuộc đời vị Tiền Nhiệm yêu quí của tôi và đặc biệt là chứng tá của ngài trong đau khổ. Ngay từ ngày ấy, chúng ta đã cảm thấy hương thơm thánh thiện của ngài loan tỏa và Dân Chúa đã biểu lộ lòng tôn kính ngài bằng nhiều cách. Vì thế, tôi đã muốn rằng án phong chân phước cho ngài được tiến hành sớm trong niềm tôn trọng đúng phép đối với qui luật của Giáo Hội. Và nay, ngày mong đợi đã đến; và đã đến sớm, vì điều đẹp lòng Chúa là: Đức Gioan Phaolô II là chân phước!”

Đức Thánh Cha chào thăm tất cả các Hồng Y, Thượng Phụ, các Giám Mục, Linh Mục và các phái đoàn chính thức, các đại sứ và chính quyền, các tu sĩ nam nữ và giáo dân, cả những người theo dõi qua truyền thanh và truyền hình, rồi ngài nói đến Chúa Nhật thứ 2 sau Phục Sinh, Chúa Nhật mà Đức Chân Phước Gioan Phaolô II đã đặt tên là Chúa Nhật kính Lòng Từ Bi Chúa. Đức Thánh Cha nói: "Chúa nhật này được chọn làm ngày cử hành lễ phong chân phước vì, do một ý định của Chúa Quan Phòng, vị Tiền Nhiệm của tôi đã từ trần chính vào tối hôm áp lễ này. Ngoài ra, hôm nay là ngày đầu tháng 5, tháng kính Đức Mẹ Maria và cũng là ngày kính nhớ Thánh Giuse Thợ. Các yếu tố này góp phần làm cho kinh nguyện của chúng ta thêm phong phú, nâng đỡ chúng ta là những người còn lữ hành trong thời gian và không gian; trong khi ở trên trời, đại lễ nơi các Thiên Thần và các Thánh rất khác! Tuy nhiên, chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, một Đức Kitô là Chúa, Đấng giống như chiếc cầu nối liền đất và Trời, và chúng ta trong lúc này đây, chúng ta cảm thấy gần gũi hơn bao giờ hết, như thể được tham dự vào Phụng Vụ Thiên Quốc.

Tiếp tục bài giảng, Đức Thánh Cha áp dụng một số ý tưởng trong các bài đọc của thánh lễ vào cuộc đời của Đức Chân Phước Giáo Hoàng: "Phúc cho những người không thấy mà tin”
(Ga 20, 29). Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tuyên bố mối phúc này: mối phúc đức tin này đánh động chúng ta một cách đặc biệt vì chúng ta tụ họp nơi đây để cử hành một lễ phong chân phước, và hơn nữa, hôm nay là lễ phong chân phước cho một vị Giáo Hoàng, người Kế Vị thánh Phêrô được kêu gọi củng cố anh em mình trong đức tin. Đức Gioan Phaolô II là chân phước vì niềm tin của ngài, niềm tin mạnh mẽ và quảng đại, tông truyền. Và chúng ta nhớ ngay tới một mối phúc khác: "Hỡi Simon, con của Giona, con có phúc vì không phải phàm nhân tỏ điều đó cho con, nhưng chính là Cha Thầy ở trên trời” (Mt 16, 17). Cha trên Trời đã tỏ điều gì cho Simon? Thưa đó là: Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Do niềm tin đó, Simon trở thành ”Phêrô”, là đá tảng trên đó Chúa Giêsu xây dựng Giáo Hội của Người. Hạnh phúc vĩnh cửu của Đức Gioan Phaolô II mà hôm nay Giáo Hội vui mừng tuyên bố, hệ tại lời này của Chúa Kitô: "Hỡi Simon, con có phúc” và "Phúc cho những ai không thấy mà tin!”. Hạnh phúc đức tin, mà Đức Gioan Phaolô II đã lãnh nhận từ Chúa Cha như hồng ân, để xây dựng Giáo Hội của Chúa Kitô”. (...)

Đức Thánh Cha nói thêm rằng: Anh chị em thân mến, hôm nay hình ảnh Đức Gioan Phaolô II kính mến chiếu tỏa rạng ngời trước mắt chúng ta trong ánh sáng thiêng liêng tràn đầy của Chúa Kitô phục sinh. Hôm nay tên của ngài được thêm vào hàng ngũ các thánh và chân phước mà ngài đã tôn phong trong gần 27 năm làm Giáo Hoàng, nhắc nhớ hùng hồn về ơn gọi của tất cả hãy đạt tới đỉnh cao của đời sống Kitô, đạt tới sự thánh thiện, như Hiến chế Lumen Gentium, Ánh Sáng Muôn Dân, của Công Đồng đã quả quyết. Tất cả mọi thành phần của Dân Chúa - Giám Mục, Linh Mục, phó tế, giáo dân, tu sĩ nam nữ - chúng ta đang tiến về quê hương Thiên Quốc, nơi mà Đức Trinh Nữ Maria đi trước chúng ta, Mẹ kết hiệp một cách đặc biệt và hoàn hảo với mầu nhiệm Chúa Kitô và Giáo Hội. Đức Karol Wojtila, trước tiên như Giám Mục Phụ tá, rồi như Tổng Giám Mục giáo phận Cracovia, đã tham dự Công Đồng Chung Vatican II và ngài biết rõ rằng sự kiện Công Đồng dành cho Mẹ Maria chương cuối cùng trong Văn kiện về Giáo Hội có nghĩa là đặt Mẹ Đấng Cứu Chuộc như hình ảnh và mẫu gương thánh thiện cho mỗi Kitô hữu và cho toàn thể Giáo Hội. Cái nhìn thần học này cũng là cái nhìn mà Đức Chân phước Gioan Phaolô II đã khám phá khi còn trẻ, và sau đó đã bảo tồn và đào sâu suốt đời. Đó là một cái nhìn được tóm gọn trong hình ảnh của Kinh Thánh về Chúa Kitô trên Thánh Giá cạnh Đức Maria Mẹ Người. Đó là một hình ảnh ở trong Tin Mừng theo Thánh Gioan
(19, 25-27) và được tóm tắt trong huy hiệu Giám Mục và huy hiệu Giáo Hoàng của Đức Karol Wojtila: trên đó có một Thánh Giá màu vàng, một chữ M dưới chân bên phải của Thánh Giá, và khẩu hiệu ”Totus tuus”, Toàn thân con thuộc về Mẹ, là câu nói nổi tiếng của thánh Louis Marie de Montfort trong đó Đức Karol Wojtila đã tìm được nguyên lý nền tảng cho cuộc đời của ngài: ”Toàn thân con thuộc về Mẹ, mọi sự của con là của Mẹ. Con đón nhận Mẹ trong mọi sự của con. Lạy Mẹ Maria, xin ban cho con trái tim Mẹ” (Totus tuus ego sum et omnia mea tua sunt. Accipio Te in mea omnia. Praebe mihi cor tuum) (Trattato della vera devozione alla Santa Vergina, n.266).

Trong di chúc, Đức Tân Chân Phước đã viết: "Ngày 16-10-1978, khi mật nghị Hồng Y chọn Gioan Phaolô II, Đức Hồng Y Stefan Wyszynbski, Giáo Chủ Ba Lan, nói với tôi: "Nhiệm vụ của vị Giáo Hoàng mới là đưa Giáo Hội vào Ngàn Năm Thứ Ba”. Và ngài viết thêm: "Một lần nữa tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn đối với Chúa Thánh Linh vì đại hồng ân Công Đồng Chung Vatican II, mà tôi cảm thấy mắc nợ cùng với toàn thể Giáo Hội, nhất là toàn thể hàng Giám Mục. Tôi xác tín rằng về lâu về dài các thế hệ mới còn được kín múc từ sự phong phú mà Công Đồng Chung của thế kỷ 20 đã rộng ban cho chúng ta. Trong tư cách là Giám Mục đã tham dự Công
Đồng từ ngày đầu tiên đến ngày cuối cùng, tôi muốn phó thác gia sản lớn lao này cho tất cả những người đang và sẽ được kêu gọi thi hành gia sản này trong tương lai. Về phần tôi, tôi cảm tạ vị Mục Tử Vĩnh Cữu đã cho tôi được phục vụ chính nghĩa rất cao cả trong tất cả những năm qua trong triều đại Giáo Hoàng của tôi”.

Đâu là chính nghĩa ấy? Chính nghĩa ấy đã được Đức Gioan Phaolô II nói đến trong thánh lễ trọng thể đầu tiên của ngài tại Quảng trường Thánh Phêrô, với những lời đáng ghi nhớ: "Anh chị em đừng sợ! Hãy mở ra, đúng hơn, hãy mở toang mọi cánh cửa cho Chúa Kitô!”. Điều mà Đức tân Giáo Hoàng yêu cầu tất cả mọi người, chính ngài đã thi hành trước tiên: ngài đã mở rộng cho Chúa Kitô xã hội, văn hóa, các chế độ chính trị và kinh tế, với sức mạnh của một người khổng lồ, sức mạnh ngài nhận được từ Thiên Chúa, ngài đã đảo lộn một xu hướng dường như không thể lật ngược được”.

Tiếp tục bài giảng trong thánh lễ phong chân phước cho Đức Gioan Phaolô II, Đức Thánh Cha nhận xét rằng: Đức Karol Wojtila lên ngai tòa Thánh Phêrô mang theo suy tư sâu sắc của ngài về sự đối chiếu giữa thuyết mác xít và Kitô giáo, quy trọng tâm vào con người. Sứ điệp của ngài là: con người là đường đi của Giáo Hội và Chúa Kitô là con đường của con người. Với sứ điệp này, vốn là đại gia sản của Công Đồng Chung Vatican II và của Vị Tôi Tớ Chúa Đức Giáo Hoàng Phaolô 6, "hoa tiêu” của Công Đồng, Đức Gioan Phaolô II đã hướng dẫn Dân Chúa tiến qua ngưỡng cửa Ngàn Năm Thứ Ba, mà nhờ Chúa Kitô, ngài đã có thể gọi là "ngưỡng cửa hy vọng”. Đúng vậy, qua hành trình dài chuẩn bị Đại Năm Thánh, Ngài đã mang lại cho Kitô giáo một hướng đi mới tiến về tương lai, tương lai của Thiên Chúa, tương lai siêu việt so với lịch sử, nhưng cũng ảnh hưởng trên lịch sử. Sức mạnh của niềm hy vọng ấy trước đó phần nào đã bị nhường cho chủ thuyết mác xít và ý thức hệ tiến bộ, nhưng ngài đã phục hồi một cách hợp pháp cho Kitô giáo, trả lại cho Kitô giáo hình dạng đích thực của niềm hy vọng, một niềm hy vọng cần được sống trong lịch sử với tinh thần chờ đợi, trong cuộc sống bản thân và cộng đồng, hướng về Chúa Kitô, là sự sung mãn của con người và là sự viên mãn những mong đợi công lý và hòa bình.

Trong phần kết của bài giảng, Đức Thánh Cha gợi lại quan hệ bản thân với Đức chân phước Giáo Hoàng. Ngài nói: "Sau cùng, tôi cũng muốn cảm tạ Thiên Chúa vì kinh nghiệm bản thân Chúa đã ban cho tôi, được cộng tác lâu dài với Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Trước kia, tôi đã từng được biết và quí mến ngài, nhưng từ năm 1982, khi ngài gọi tôi về Roma làm Tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin, trong 23 năm trời, tôi đã được ở gần ngài và ngày càng kính mến ngài hơn. Công tác phục vụ của tôi được nâng đỡ nhờ linh đạo sâu xa và những trực giác phong phú của ngài. Gương cầu nguyện của ngài luôn đánh động và khích lệ tôi: Ngài chìm đắm trong cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, dù giữa bao nhiêu công việc bề bộn trong sứ vụ của ngài. Rồi chứng tá của ngài trong đau khổ: Chúa đã dần dần tước bỏ mọi sự của ngài, nhưng ngài vẫn luôn là "một đá tảng” như Chúa Kitô đã muốn. Lòng khiêm tốn sâu xa của ngài được ăn rễ sâu nơi sự kết hiệp thân mật với Chúa Kitô, đã giúp ngài tiếp tục hướng dẫn Giáo Hội và mang lại cho thế giới một sứ điệp hùng hồn hơn, chính trong thời kỳ sức lực thể lý của ngài bị suy giảm. Vì thế, ngài đã thực hiện một cách ngoại thường ơn gọi của mỗi linh mục và giám mục, đó là trở nên một với Chúa Giêsu, Đấng mà hằng ngày các vị lãnh nhận và trao ban trong Thánh Thể”.

”Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II quí yêu, phúc cho ngài vì ngài đã tin! Chúng con xin ngài tiếp tục nâng đỡ niềm tin của Dân Chúa từ trời cao. Amen.

Bài giảng của Đức Thánh Cha đã bị ngắt quãng nhiều lần bởi các tràng pháo tay dài của tín hữu.

Lời nguyện giáo dân cầu cho các nhu cầu của Giáo Hội được đọc bằng các thứ tiếng Tây Ban Nha, Pháp, Đức, Nga, và Anh. Lời nguyện tiếng Đức cầu cho kitô hữu bị bách hại được can đảm và kiên trì trong đức tin.

Ba cặp nam nữ đã bưng lễ vật lên Đức Thánh Cha, đi đầu là một cặp nam nữ trong sắc phục cổ truyền Ba Lan rất đẹp.

Đức Thánh Cha đã cho một số tín hữu rước lễ, trong đó có hai nữ tu Marie Simon Pierre và nữ tu Tobiana. 800 Linh Mục đã giúp Đức Thánh Cha cho tín hữu rước Mình Thánh Chúa.

Cuối thánh lễ, trước khi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng, Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng các thứ tiếng Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ba Lan và Ý. Ngài chào các phái đoàn chính thức, các giới lãnh đạo dân sự và quân sự, các linh mục tu sĩ nam nữ và rất đông đảo tín hữu đến tham dự thánh lễ phong Chân Phước cho Đức Gioan Phaolô II. Ngài ước mong cuộc sống và công trình của Chân Phước Gioan Phaolô II là suối nguồn cho một dấn thân mới phục vụ tất cả mọi người và toàn con người. Đức Thánh Cha xin vị Tân Chân Phước chúc lành cho các cố gắng của mỗi người trong việc xây dựng một nền văn minh tình thương, trong sự tôn trọng phẩm giá của từng người được dựng nên giống hình ảnh của Chúa, và đặc biết chú ý tới những người yếu đuối hơn.

Đức Thánh Cha đã đặc biệt cám ơn chính quyền Italia, tổng thống, chính phủ và các giới chức thành phố Roma, cũng như mọi tổ chức và hiệp hội, các lực lượng an ninh và đông đảo các thiện nguyện viên vì sự cộng tác tích cực báu cho ngày lễ này. Ngài cũng chào các tín hữu hiện diện tại quảng trường Thánh Phêrô các đường phụ cận và tại nhiều nơi khác trong thành phố Roma, đặc biệt là các bệnh nhân, người già cả cũng như những ai theo dõi lễ nghi qua các đài phát thanh truyền hình. Ngài phó thác mọi người cho lời bầu cử của Tân Chân Phước và tình yêu thương hiền mẫu của Mẹ Maria.

Sau cùng Đức Thánh Cha đã đọc Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng và ban phép lành cho mọi người

Tiếp đến Đức Thánh cha và các vị Hồng Y đồng tế đã vào bên trong Đền thờ thánh Phêrô để tôn kính quan tài của Đức Gioan Phaolô II, theo sau là các phải đoàn chính quyền, các giám mục, các bệnh nhân, rồi đến các tín hữu.

Lễ nghi mở mộ Đức Gioan Phaolô II đã diễn ra lúc 9 giờ sáng thứ sáu 29-4-2011 dưới hầm đền thờ thánh Phêrô, trước sự hiện diện của Đức Hồng Y Tarcisio Bertone, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh. Quan tài của Đức Gioan Phaolô II được đặt trước mộ của thánh Phêrô có phủ một khăn viền vàng. Sáng Chúa Nhật hôm qua, quan tài đã được đưa lên đặt trước bàn thờ tuyên xưng đức tin của đền thờ thánh Phêrô. Chiều thứ hai hôm nay quan tài Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II sẽ được bỏ vào một hộc trong nhà nguyện thánh Sebastiano cạnh nhà nguyện Pietà. Tấm bia mộ của người sẽ được đưa về Cracovia và sẽ được đặt trong nhà thờ mới dâng kính người.

Lúc 10g30 sáng thứ hai 2-5-2011 Đức Hồng Y Tarcisio Bertone Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh chủ sự thánh lễ tạ ơn tại quảng trường thánh Phêrô.

Trần Phúc Nhạc - Linh Tiến Khải 5/3/2011
(vietcatholic.net)

Chủ Nhật, 1 tháng 5, 2011

LỜI CHỦ CHĂN THÁNG 5.2011

Toà Tổng Giám mục Thành phố HCM

Ngày Quốc Tế Lao Động
Thành phố HCM 1. 5. 2011

LỜI CHỦ CHĂN
Đón nhận và chia sẻ quà tặng
của Chúa Phục Sinh cho mọi người anh em

Kính gửi linh mục, tu sĩ, giáo dân trong giáo phận
Anh chị em thân mến,

1. Quà tặng Phục Sinh. Quà tặng của Chúa Kitô Phục Sinh cho nhân loại là sự sống mới, sự sống dồi dào trong Nước Chúa là cõi đất trời chan hoà ánh sáng chân lý và tình yêu, công lý và hoà bình. Điều kiện đón nhận và chia sẻ quà tặng đó là bước theo Chúa Kitô trên con đường hội nhập và dấn thân phục vụ, hiến thân và đổi mới, tiếp nối sứ vụ Phúc Âm hoá của Ngài, và cộng tác với ơn Chúa Thánh Thần đổi mới đời sống con người cùng gia đình và xã hội. Giáo phận thành lập Ban Mục Vụ Công Lý và Hoà Bình, nhằm tạo điều kiện cho mọi người chúng ta đón nhận và chia sẻ quà tặng đó cho đồng bào và đồng loại. Vậy, anh chị em hãy dành chút thời giờ, tìm hiểu nguồn gốc, mục đích, nhiệm vụ của Ban Mục Vụ này, và nhiệm vụ Phúc Âm hoá của người Công Giáo trong hoàn cảnh xã hội hôm nay.

2. Nguồn gốc của Tổ Chức Công Lý và Hoà Bình. Dựa vào giáo huấn của Công Đồng Vatican II dạy người môn đệ của Chúa Kitô hội nhập vào đời sống văn hoá xã hội, đồng cảm và chia sẻ "Vui mừng và hy vọng , ưu sầu và lo âu của con người ngày nay, nhất là người lâm cảnh túng thiếu và khổ đau..." (VMHV,số 1), và dựa giáo huấn của Giáo Hội đã xác định về sứ vụ Phúc Âm hoá của người kitô hữu đối với cộng đồng nhân loại: "Không có gì liên quan đến đời sống xã hội trần thế mà lại nằm ngoài công cuộc Phúc Âm hoá ", đồng thời theo đề xuất của Công Đồng Vatican II, năm 1976, Đức Giáo hoàng Phaolô VI hình thành Uỷ Ban Công Lý và Hoà Bình (CLHB). Đến năm 1988, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cải tổ thành Hội Đồng Giáo Hoàng về Công Lý Hoà Bình (HĐGH.CLHB).

3. Mục đích của HĐGH.CLHB. Mục đích là phối hợp với các tổ chức liên hệ, tạo điều kiện cho mọi thành phần dân Chúa tham gia công cuộc Phúc Âm hoá những thực tại trần thế cùng đời sống con người, góp phần cùng cộng đồng nhân loại xác lập một nền nhân bản mới cùng một trật tự xã hội mới cho thế giới toàn cầu hoá hôm nay (x. Thông điệp "Tình Yêu trong Chân Lý" của ĐGH Bênêđitô XVI, Vatican, 29.6.2009). Nói cách khác, tham gia công cuộc Phúc Âm hoá là chung sức với mọi người thiện tâm xây mới ngôi nhà gia đình nhân loại trên nền đá vững chắc là Lời Chúa
(x. Mt 7, 24-27; Lc 6, 46-49), với bốn trụ cột vững bền là chân lý và tình thương, công lý và hoà bình (x.Tv 85, 11-12).

Đó cũng là mục đích của Uỷ Ban CLHB thuộc HĐGM.VN cùng Ban Mục Vụ CLHB của giáo phận, với chức năng mục vụ là soi đường dẫn lối cho cộng đồng dân Chúa làm chứng và loan truyền Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, cùng tiếp nối sứ vụ Phúc Âm hoá của Ngài, vì sự sống cùng sự phát triển con người và đất nước hôm nay.

4. Nhiệm vụ của Ban Mục Vụ Công Lý và Hoà Bình giáo phận. Nhiệm vụ cụ thể là nghiên cứu, đào sâu, và phố biến Giáo huấn của Giáo Hội về xã hội, đặc biệt nội dung những văn bản sau đây :

- "Hợp tuyển giáo huấn của Giáo Hội về xã hội" trong hai thế kỷ 19 và 20, do HĐGH.CLHB xuất bản năm 2000, với Lời Tựa của ĐHY PX Nguyễn Văn Thuận, đương kim Chủ tịch của HĐGH.CLHB;

- "Tổng lược Học Thuyết xã Hội của Giáo Hội Công Giáo", xuất bản năm 2004, với Lời giới thiệu của ĐHY Sodano, Quốc Vụ Khanh Vatican, và của ĐHY Martino, đương kim Chủ tịch HĐGH.CLHB.

Giáo huấn của Giáo Hội về xã hội triển khai Lời Chúa là nguồn ánh sáng chân lý về sự sống con người cùng nhân phẩm và nhân quyền, về gia đình và cộng đồng xã hội, về các mối quan hệ xã hội cùng bang giao giữa các dân tộc. Ban Mục Vụ CLHB phổ biến giáo huấn đó nhằm soi đường dẫn lối cho mọi thành phần dân Chúa đưa những giá trị Tin Mừng, những giá trị nhân bản, vào trong đời sống văn hoá và xã hội, kinh tế tài chính và chính trị của cộng đồng nhân loại hôm nay (x. Thông điệp "Tình Yêu trong Chân Lý").

Đó là con đường cộng đồng dân Chúa thi hành sứ vụ Phúc Âm hoá những thực tại trần thế, hướng đến xác lập một nền nhân bản mới cùng một trật tự xã hội mới cho trong thế giới toàn cầu hoá hôm nay,

5. Công cuộc Phúc Âm hoá và nhiệm vụ của người công giáo hôm nay. Công cuộc Phúc Âm hoá với định hướng trên đề ra cho mọi thành phần dân Chúa, - giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân, cộng đoàn giáo xứ cùng các tổ chức mục vụ và các tổ chức tông đồ giáo dân, - ba nhiệm vụ chính như sau:

Nhiệm vụ I. Chuyên cần cầu nguyện và mở rộng lòng trí tiếp nhận nguồn ánh sáng chân lý và tình yêu của Chúa Giêsu Đấng cứu độ, tiếp nhận ơn hiểu biết và ơn khôn ngoan, ơn sức mạnh và ơn đổi mới của Chúa Thánh Thần. Nói cách khác là thường xuyên sống hiệp thông mật thiết với Ba Ngôi Thiên Chúa để tìm và thi hành ý Cha trên trời.

Nhiệm vụ II. Mở rộng tình huynh đệ hiệp thông và ý thức trách nhiệm liên đới trong Giáo Hội cùng xã hội, nhằm đưa nguồn ánh sáng chân lý và tình yêu cùng những giá trị Tin Mừng vào trong đời sống con người và xã hội, từng bước xoá tan những bóng đen của lối sống văn hoá sự chết, đồng thời vun đắp nếp sống văn hoá sự sống và văn minh tình thương cho gia đình cùng xã hội;

Nhiệm vụ III. Cộng tác với ơn Chúa Thánh Thần đổi mới con người cùng những thực tại trần thế hôm nay. Trong bối cảnh văn hoá, xã hội, kinh tế, chính trị hôm nay, việc cộng tác với Chúa Thánh Thần đòi hỏi các thành phần dân Chúa hội nhập vào đời sống văn hoá xã hội, dấn thân phục vụ cho sự sống con người, và chung sức với mọi người thiện tâm thực hiện ba công việc đổi mới này :

- Đổi mới từ "luật vị luật" hướng đến "luật vị nhân sinh". Đổi mới qua con đường sáng suốt và khôn ngoan khắc phục tính bất cập và bất công trong hệ thống cơ chế luật lệ trong xã hội, vượt qua hiện trạng "luật vị luật", luật mang tính cục bộ và bất bình đẳng, đi đến thực thi "luật vị nhân sinh", luật mang tính tôn trọng sự sống, nhân phẩm và nhân quyền, tôn trọng sự bình đẳng giữa mọi thành phần và giai cấp xã hội, tôn trọng sự tự do làm người hữu ích cho cộng đồng xã hội, hướng đến một trật tự xã hội nhân bản hơn.

- Đổi mới từ khuynh hướng đối đầu hướng đến đối thoại và hợp tác huynh đệ. Đổi mới qua con đường tình thương thuyết phục con người, rèn luyện thế hệ trẻ ý thức và quyết tâm vượt qua lối sống vô nhân và vô tâm, thiếu tự trọng và trung thực, thừa gian trá và bạo lực trong các mối quan hệ xã hội, hướng đến vun đắp lối sống văn hoá sự sống cùng văn minh tình thương cho gia đình cùng xã hội đất nước.

- Đổi mới từ lối sống tha hoá hướng đến lối sống nhân bản hơn. Đổi mới qua con đường bình tâm và quyết tâm xoá dần những tệ nạn xã hội đã tạo ra những thảm trạng cho đời sống con người, gia đình và xã hội, hướng đến một lối sống mang tính người và tình người hơn, một xã hội lành mạnh và nhân đạo hơn, một tương lai tươi sáng hơn cho thế hệ trẻ và cộng đồng xã hội hôm nay.

6. "Hãy báo cho anh em Ta..., để anh em sẽ gặp lại Thầy..."
(x. Mt 28, 10). Trong hoàn cảnh văn hoá xã hội hôm nay, việc đáp lại tiếng Chúa Phục Sinh mời gọi loan báo Chúa Phục Sinh, làm men muối và ánh sáng Tin Mừng cho đời, Phúc Âm hoá thực tại trần thế, đòi hỏi mọi thành phần giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân, thực hiện hai công việc này:

- trước tiên là, trong tình hiệp thông huynh đệ, hãy cùng nhau thống nhất chung một đường hướng Phúc Âm hoá các thực tại nhân loại trên quê hương đất nước hôm nay;

- thứ đến, chú tâm chu toàn nhiệm vụ Phúc Âm hoá, chung sức với mọi người vun đắp một nền nhân bản mới và một trật tự xã hội mới cho cộng đồng xã hội hôm nay.

7. Đón nhận và chia sẻ quà tặng của Chúa Phục Sinh
Chúng ta hãy chuyên cần cầu nguyện xin Thiên Chúa là Cha giàu lòng từ bi nhân hậu, thương ban ơn cho mọi người, mọi gia đình,mọi cộng đoàn, mọi tổ chức trong gia đình giáo phận, ý thức đón nhận quà tặng của Chúa Phục Sinh, và quan tâm chia sẻ quà tặng vô giá đó cho nhau, cho mọi người, vì sự sống dồi dào và sự phát triển toàn diện của con người cùng đất nước hôm nay.

Gioan B. Phạm Minh Mẫn
Hồng Y Tổng Giám mục

(WGPSG)

DI CHÚC CỦA ĐTC GIOAN PHAOLÔ II

Hôm nay ngày 01.5.2011, tại Roma, Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI đã cử hành Thánh Lễ Phong Chân Phước (Á Thánh) cho Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Nhân dịp này, xin kính mời cộng đoàn đọc trích đoạn Di Chúc của ngài.


Trích Di chúc
của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II


Các con thân mến!

Hiện nay các con đang sống trong thời đại đầy gian nguy và thử thách. Các con hãy cố gắng kiên tâm vững tin vào Lời Chúa. Chính Chúa Giêsu đã hiện ra, nhờ cha thông báo cho các con những sứ điệp: Các con hãy cầu khẩn Thiên Chúa các con, giải trừ nguy nan trong thế giới sắp sụp đổ này.

Các con thân mến, khi cha ra đi cũng chính là lúc những biến cố thảm họa sẽ đổ xuống thế giới này: chiến tranh ngày càng lan rộng, động đất khắp nơi, các cuộc tai nạn lớn sẽ xảy ra, tại các nước lớn như Nhật bản, Trung quốc, Philippin.

Các con là những người cha tin yêu nhất, là những người con thuộc dòng dõi Đavít*, các con hãy kêu xin cùng Thiên Chúa, bằng cách các con đọc kinh cầu nguyện:

Với những lời kinh tha thiết sau đây:

Xướng: Xin Thiên Chúa dủ lòng thương xót chúng con!
Đáp : Vì Chúa đã sinh ra chúng con, và đặt chúng con trên trái đất này.

Xướng
: Xin an ủi nâng đỡ chúng con trong lúc gian nguy.
Đáp : Vì Chúa là nguồn an ủi của chúng con.

Xướng
: Xin xua đuổi những giặc thù xa chân chúng con.
Đáp : Vì Chúa là Đấng đã bảo vệ chúng con.

Kết
: Xin phù hộ chúng con trên đường dương thế, tránh xa kẻ thù tội lỗi, để chúng con một ngày kia, sẽ được hưởng phúc vinh quang muôn đời, cùng với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Amen.

Sau những lời nguyện trên, các con hãy đọc:

- Một kinh Tin kính
- Một Kinh Chúa Thánh Thần
- Một Kinh ăn năn tội
- Và lời nguyện tắt:

“Giêsu Maria Giuse con mến yêu,
xin cứu rỗi linh hồn con và muôn dân muôn nước”.

Khi các con phổ biến một bản kinh này cho một người thì các con được hưởng một ơn tiểu xá, cứ 100 người thì được một ơn đại xá. Và khi các con rời thế gian này, sẽ được các Thiên Thầ
n đưa về Trời, hưởng hạnh phúc muôn đời.

Cha ban phép lành và chúc phúc cho những ai phổ biến bản kinh này.

(Trích dịch “Di chúc của ĐTC GP II”, theo bản tiếng Anh của cha Lorento thuộc Bộ Giáo Lý Đức tin, Rôma.)

(nguồn : memaria.org)

Di chuyển quan tài ĐTC Gioan Phaolô II

Đêm Canh thức trước Thánh Lễ Phong Chân Phước


HÌNH ẢNH GIÁO XỨ THUẬN PHÁT TỔ CHỨC RƯỚC KIỆU TƯỢNG CHÚA THƯƠNG XÓT CHIỀU CN 01-5-2011




* Thánh Lễ chiều Chúa Nhật 01-5-2011 (lúc 17 giờ) Cha Chánh Xứ đã tiến hành nghi thức Thánh hóa Tượng Chúa Thương Xót và cùng cộng đoàn tổ chức cuộc Rước Tượng Chúa của Lòng Thương Xót chung quanh Nhà Thờ thật long trọng trước khi cử hành Thánh Lễ Chúa Nhật II Phục Sinh, Chúa Nhật Về Lòng Thương Xót Chúa.

* Trong cuộc Rước, cộng đoàn cùng nhau Lần Chuỗi Thương Xót.

* Trong Thánh Lễ Cha Chánh Xứ đã mời gọi cộng đoàn cùng Tạ Ơn Thiên Chúa vì Chúa đã Ban cho Hội Thánh một Chân Phước Á Thánh là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

* Sau Thánh Lễ Giáo Xứ đã tổ chức chiếu một đoạn vidéoclip nói về cuộc đời của Á Thánh Gioan Phaolô II cho cộng đoàn cùng xem.

Mời xem hình Cuộc Rước Kiệu Ở ĐÂY.


Hữu Toàn.

AUDIO THÁNH LỄ CHÚA NHẬT II PHỤC SINH NĂM A

* Audio Thánh Lễ Chúa Nhật II Phục Sinh năm A.
Cha Chánh Xứ dâng Lễ.
Ca đoàn Cécilia hát Lễ.

Mời bấm VÀO ĐÂY để nghe.


Hữu Toàn.

Thứ Bảy, 30 tháng 4, 2011

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH NĂM A (Ga 20, 19-31)

“Chúng tôi đã thấy Chúa”

Cả bốn Tin mừng đều thuật lại những lần hiện ra của Chúa Phục Sinh với những cá nhân
(Ga 20, 14-17; Mt 28, 5-7; Lc 24, 25-31; Mc 16, 9-13) và những nhóm môn đệ khác nhau (Mt 28, 16-20; Lc 24, 36-49; Ga 21, 1-23).

Tường thuật Chúa Phục Sinh đến với Nhóm Mười Hai vào ngày thứ nhất trong tuần có một tầm quan trọng đặc biệt. Nhóm Mười Hai trở thành nền tảng của cộng đoàn Phục Sinh, thành những chứng nhân mắt thấy tai nghe về Chúa Phục Sinh, để loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người
(x. CV 4, 20).

Khi Chúa đến với Nhóm Mười Hai lần đầu tiên vào chiều ngày thứ nhất trong tuần thì Tôma vắng mặt. Các Tông đồ đã nói với ông :”Chúng tôi đã được thấy Chúa”
(Ga 20, 25). Đây vừa là lời tuyên xưng đức tin vừa là lời làm chứng về Chúa Phục Sinh. Những lời này có tác dụng chuẩn bị và khơi dậy đức tin đã phai lạt nơi Tôma.

Tám ngày sau, cũng trong cộng đoàn đó, Tôma tìm lại được đức tin của mình. Chính cộng đoàn đã thắp sáng lên niềm tin cho người anh em. Bởi đó, khi Chúa Phục Sinh với lời mời gọi yêu thương: "Tôma, hãy xỏ ngón tay con vào lỗ đinh, hãy đặt bàn tay con vào cạnh sườn Thầy. Chớ cứng lòng nhưng hãy tin” thì lập tức Tôma được biến đổi từ bóng tối nghi nan sang ngời sáng niềm tin “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”
(Ga 20, 28).

Một trong những khuyết điểm lớn nhất của Tôma là ông đã tự tách rời khỏi các Tông Đồ khác, khỏi đời sống cộng đoàn. Trong sự choáng váng, thất vọng, chán nản, trong tâm trạng hoài nghi, đau khổ, ông đã tự nhốt mình trong sự cô đơn xa lánh anh em, tìm quên lãng trong sự phiền muộn nên đánh mất cơ hội gặp Chúa Phục Sinh. Chỉ đến khi tham gia trở lại với cộng đoàn, ông mới gặp gỡ Ngài và nhờ đó ông đã tìm lại được lòng tin mạnh mẽ, kiên trung.

Hành trình của Tôma đi qua ba giai đoạn: vắng mặt, nghi ngờ và tuyên xưng đức tin. Truyền thống Giáo Hội kể lại, Tông đồ Tôma qua Ấn độ truyền giáo và chịu tử đạo ở đó.


Đức tin của người tín hữu được trao ban và nhận lãnh nơi cộng đoàn Phục Sinh, cộng đoàn giáo xứ. Nơi cộng đoàn này, người tín hữu được nuôi dưỡng và lớn lên trong đức tin, hoặc tìm lại được niềm tin của mình.


Đức tin Kitô giáo vừa có chiều kích cộng đoàn vừa có chiều kích cá nhân. Đức tin cá nhân được cộng đoàn nuôi dưỡng và làm thành đức tin cộng đoàn. Cộng đoàn lớn lên và phát triển là nhờ đức tin cá nhân. Cộng đoàn làm cho đức tin cá nhân phong phú và độc đáo.


Lời Chúa được công bố giữa cộng đoàn Thánh Thể chính là Lời Phục Sinh, mỗi người tín hữu lắng nghe và chấp nhận cho riêng mình. Mỗi người, nhờ lòng tin và lòng mến mà Lời Chúa sẽ sinh hoa kết quả trong tâm hồn.


Mình Máu Chúa được trao ban cho mọi tín hữu trong cộng đoàn Thánh Thể, mỗi cá nhân tín hữu lại đón nhận với mức độ đức tin khác nhau. Người tín hữu phải đủ đức tin khi rước Thánh Thể của Đấng đã chết và sống lại. Không chỉ ăn uống Mình Máu Chúa mà còn là gặp gỡ riêng tư với Chúa Phục Sinh như Tôma vậy. Trong cuộc gặp gỡ riêng tư này, người tín hữu được đón nhận sự sống dồi dào vào tâm hồn mình.


Đời sống cộng đoàn thật quan trọng cho niềm tin người tín hữu. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Tông Huấn “Người Kitô hữu giáo dân” đã đưa ra bốn hình ảnh về giáo xứ, cộng đoàn Phục Sinh, cộng đoàn Thánh Thể.


* Giáo xứ là một gia đình của Thiên Chúa chan hoà tình bác ái huynh đệ: mọi người được đón tiếp chân thành, được sống trong bầu khí bác ái, được cảm thấy mình được kính trọng, được yêu thương che chở, ai cũng cảm thấy mình thuộc về giáo xứ là một vinh dự.


* Giáo xứ là một cộng đoàn nuôi dưỡng đức tin: Mọi người được bồi dưỡng đức tin, được kêu gọi sống đức tin, được giúp hiểu biết các vấn đề đức tin. Các Thánh lễ, các giờ giao lý, các buổi cầu nguyện luôn hướng về Thiên Chúa, được Lời Chúa và lời Giáo Hội soi sáng để người tín hữu hiểu biết những biến cố cuộc đời.


* Giáo xứ là một cộng đoàn có tổ chức: Mọi người được sắp xếp trong một hệ thống trật tự, có phân công, có trách nhiệm. Tất cả liên hệ với nhau trong tinh thần hiệp thông, cộng tác, trách nhiệm để xây dựng giáo xứ tốt đẹp.


* Giáo xứ là một cộng đoàn truyền giáo: Đây là hình ảnh mà Công Đồng Vatian II đề cao nhất, hình ảnh cộng đoàn truyền giáo. Mọi người được nuôi dưỡng đức tin, được sống tình bác ái để ra đi truyền giáo, loan báo Tin Mừng Phục Sinh, rao truyền niềm vui, niềm hy vọng như cộng đoàn Nhóm Mười Hai đã ra đi đến với muôn dân.


Cộng đoàn phụng vụ ngày Chúa Nhật là điểm hẹn chính thức và thường xuyên của Chúa Phục Sinh với các tín hữu. Không nên lỗi hẹn với Chúa trong các cuộc họp cộng đoàn
(x.Dt 10, 25), trái lại cần chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ với Chúa Phục Sinh. Người luôn có mặt để giải thích Kinh Thánh đồng thời mở lòng mở trí cho các tín hữu hiểu Lời Người (x.Lc 24, 32.45) và hiến ban chính mình để nuôi sống người tín hữu chúng ta.

Tôma đã nhờ cộng đoàn yêu thương nâng đỡ mà tìm lại được niềm tin. Nơi Tôma có cái gì đáng yêu đáng ngưỡng mộ, tuy cứng lòng tin nhưng lại dễ dàng khiêm nhường đón nhận những góp ý chân thành của cộng đoàn.


Nhờ Tôma mà ta có được mối phúc thứ chín: “Phúc cho ai không thấy mà tin”
(Ga 20, 29). Mối phúc này nghe như có lời dặn dò: muốn thấy điều mình tin, hãy bắt đầu bằng cách tin điều mình không thấy và chừng như cũng có lời ước hẹn: tin điều mình không thấy sẽ thấy điều mình tin. Mỗi tín hữu vững tin sẽ thấy điều mình tin để nói được rằng: "Tôi đã thấy Chúa”(Ga 20, 18), nhờ đó cả cộng đoàn cũng đều nói lên : "Chúng tôi đã thấy Chúa” (Ga 20, 25).

Lm Giuse Nguyễn Hữu An
(thanhlinh.net)

Chủ Nhật, 24 tháng 4, 2011

AUDIO THÁNH LỄ CHÚA NHẬT PHỤC SINH NĂM A

* Audio Thánh Lễ Chúa Nhật Phục Sinh năm A.
Cha Chánh Xứ dâng Lễ.
Ca đoàn Cécilia hát Lễ.

Mời bấm VÀO ĐÂY để nghe.


Hữu Toàn.

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT PHỤC SINH NĂM A (Ga 20, 1-9)


Mời xem videoclip

CHỨNG NHÂN CỦA SỰ PHỤC SINH

Đức Kitô chết và đã sống lại thật, thân xác của Chúa không còn bị giới hạn bởi không gian và thời gian, không còn phụ thuộc vào vật chất. Đó là niềm tin căn bản của người Kitô hữu. Như Thánh Phaolô đã quả quyết “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng”
(1 Cr 15, 14). Và “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền” (1Cr 15,17). Hơn thế nữa, nếu Đức Kitô mà không sống lại thì quả thật “chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1Cr 15, 19).

Mầu nhiệm Chúa Sống Lại là niềm tin căn bản của Người Kitô hữu. Chúng ta cần phải dựa vào các chứng nhân đáng tin cậy, cần nắm vững những chứng cứ để củng cố niềm tin căn bản của chúng ta.

Các chứng nhân là những người đã từng đi theo Chúa, giúp đỡ Chúa, nghe Chúa giảng dạy, chứng kiến những phép lạ Chúa làm, chứng kiến cuộc khổ hình Chúa đã chịu, chứng kiến cái chết ô nhục trên thập giá và sau ba ngày Chúa đã phục sinh. Những con người đầu tiên được thấy Đấng Phục Sinh chính là những con người được Chúa Giêsu yêu mến và cũng là người đã yêu mến Chúa Giêsu thực sự.


Bà Maria Mácđala là một trong những người đã can đảm đi theo Chúa trên con đường khổ giá từ Galilê đến đồi Golgotha
(x. Lc 23, 55). Bà còn là một trong ba người đứng dưới chân Thập Giá Chúa Giêsu “Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđala” (Ga 19, 25). Bà còn có mặt trong lúc mai táng Chúa “các bà để ý nhìn vào mộ và xem xác Người được đặt như thế nào. Rồi các bà về nhà chuẩn bị dầu và thuốc thơm” (Lc 23, 55-56) để sau ngày Sabát sẽ đi viếng Chúa và xức thuốc thơm, để được gần Chúa, được chiêm ngắm Chúa. Nên vừa “Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần lúc trời còn tối bà Maria Mácđala đi đến mộ thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ” (Ga 20,1). Bà hoảng hốt tưởng là có ai đó đã lấy trộm xác Chúa, bà liền chạy về báo tin cho ông Phêrô và Gioan "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu" (Ga 20, 2).

Hai ông được tin báo thì cũng hốt hoảng liền đi ra mộ, Thánh Gioan đã nói rõ “Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào”
(Ga 20, 4). Có lẽ ông Phêrô lớn tuổi hơn, nên chạy chậm hơn. Gioan đến trước, nhưng không vào trong mồ, Phêrô đến sau “Ông vào thẳng trong mộ thấy những băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi” (Ga 20, 6-7). Lúc đó Gioan mới vào. Các Ông nhìn thấy và hiểu ngay Chúa đã sống lại. Như vậy cả hai cùng đến và cùng thấy: Mồ trống, ngôi mộ nguyên vẹn, khăn liệm được xếp lại, tất cả những chi tiết này làm các ông chú ý nhiều, nếu kẻ cắp lấy trộm xác thì chúng phải làm mau lẹ để đi kẻo bị bắt, không ai lại đứng để mà cuốn lại và xếp riêng một nơi như vậy.

Ba nhân chứng đầu tiên không tận mắt nhìn thấy Chúa sống lại, nhưng đã thấy ngôi mộ trống, băng vải và khăn che đầu của Chúa còn để đó, được sắp xếp có trật tự. Nên các ông nhận ra Chúa đã sống lại thật. “Ông đã thấy và đã tin”
(Ga 20,8). Các chứng nhân còn có sự biến chuyển về đức tin, tin vào biến cố Chúa Phục Sinh. Vừa đến mộ, bà Maria thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. Đứng ở cửa mộ nhìn vào, ông Gioan thấy những băng vải còn ở đó. Vào thẳng bên trong mộ, ông Phêrô thấy những băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giêsu. Nếu để ý chúng ta sẽ thấy một biến chuyển của lòng tin, bắt đầu từ bên ngoài mộ tới cửa mộ, rồi từ cửa vào thẳng trong mộ. Chuyển biến đó diễn tả từ việc nhìn thấy bên ngoài đưa đến tin thật trong lòng, từ chưa hiểu lời Kinh Thánh đến hiểu lời Kinh Thánh nói về Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết.

Tuy nhiên, tin vào Chúa Giêsu phục sinh không chỉ dừng lại ở sự kiện ngôi mộ trống, mà còn đưa họ đi xa hơn nữa là loan tin mừng Chúa phục sinh. Ông Phêrô và Gioan cùng với các tông đồ lên đường rao giảng Chúa Giêsu đã chịu khổ hình, chịu chết và ngày thứ ba Người đã phục sinh. Niềm tin vào Đức Kitô Phục sinh đã thúc đẩy các tông đồ ra đi làm chứng cho Chúa, sẵn sàng chấp nhận mọi khó khăn gian khổ, bất chấp mọi đe dọa, bách hại tù đày và khủng bố… Sẵn sàng lấy tính mạng mình để làm chứng rằng Chúa Giêsu chịu khổ hình, chịu chết trên thập giá và sau ba ngày Người đã sống lại thật.


Chúng ta hãy can đảm đến mồ Chúa để khám phá bằng con mắt đức tin và lòng nhiệt thành như Gioan và Phêrô nhận ra Chúa đã sống lại. Đức tin sẽ giúp chúng ta nhận ra Chúa phục sinh, miễn là ta có thành tâm thiện chí, tìm gặp Ngài với tâm hồn đơn sơ khiêm tốn, với lòng yêu mến thiết tha. Với con mắt đức tin, chúng ta sẽ tìm gặp được Chúa và sẽ biết rằng Chúa đã sống lại thật.

Mầu nhiệm Chúa Kitô phục sinh, thân xác Chúa trở nên vinh hiển sáng láng tốt lành, giúp ta tin thật, chúng ta kiên tâm bước theo chân Chúa, đi trên con đường Chúa đã đi, sống như Chúa đã dạy, nói như Chúa nói, làm như Chúa đã làm, yêu như Chúa đã yêu. Hy vọng chúng ta cũng sẽ được sống lại với Người trong vinh quang và thân xác chúng ta cũng trở nên sáng láng tốt lành.


Chúa đã phục sinh hiển vinh, Chúa không còn bị giới hạn bởi không gian và thời gian, tảng đá lấp cửa mộ đã được lăn ra. Những người yêu mến Chúa, tìm Chúa nhận ra Chúa đã sống lại thật và làm chứng rằng Chúa Giêsu đã chịu khổ hình thập giá và sau ba ngày Người đã phục sinh.


Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta không nhận ra Chúa phục sinh, không dám làm chứng cho Tin Mừng Phục Sinh. Bởi chúng ta không yêu mến Chúa, không đọc kinh cầu nguyện, không học hỏi và suy gẫm Lời Chúa, không biết khiêm tốn đi tìm Chúa, không ao ước được gặp Chúa. Con mắt đức tin của ta đang bị che lấp bởi tảng đá to là sự lời biếng, là sự hưởng thụ, là tiền tài danh vọng...

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu mến Chúa, ước ao tìm gặp Chúa phục sinh mỗi ngày, để chúng con cũng làm chứng cho mọi người nhận biết Chúa đã sống lại thật. Amen.


Jos. Hồng Ân
(nguồn : thanhlinh.net)

HÌNH ẢNH ĐÊM CANH THỨC VƯỢT QUA GIÁO XỨ THUẬN PHÁT 23-4-2011


Hình ảnh đêm Canh Thức Vượt Qua Giáo Xứ Thuận Phát 23-4-2011.



Mời xem thêm hình TẠI ĐÂY.


Hữu Toàn.