Thứ Bảy, 26 tháng 3, 2011

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY NĂM A (Ga 4, 5-42)

AI KHAO KHÁT ĐƯỢC NƯỚC HẰNG SỐNG?

Chúa Giêsu đáp: "Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà: 'Xin cho tôi uống nước', thì chắc bà sẽ xin Người, và Người sẽ cho bà nước hằng sống". Chúa Giêsu trả lời: "Ai uống nước giếng này sẽ còn khát, nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa, vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời".
(Ga 4, 5-42).

Cuộc đời của con người trần gian đã khác lắm đối với những con người sống trong mộng mị, không tưởng, và luôn được ao ước ông Trời ban cho họ cuộc sống sung túc khá giả; ước cho được trúng số là một; hai là có ông tiên hay người nhà giầu nào đó trước khi chết để tặng lại cho họ một số tiền kếch xù, mà thỉnh thoảng trần gian có những chuyện hiếm có được xẩy ra. Tuy dù bao nhiêu triệu con người ta thì chỉ có được một vài người trúng số, và cũng trong bao nhiêu triệu triệu con người ta thì có được vài người nhà giầu có lòng hảo tâm. Và thường sau thời gian lâu dài họ sống trong mộng mị và ao ước mãi, cũng sẽ dạy cho người ta hãy thức tỉnh mà phải sống thực tế. Ao ước không làm cho bụng ta no. Ao ước không giúp cho chúng ta được ấm. Mơ tưởng không giúp cho chúng ta phụ nữ kiếm được chồng giầu mà lại là quân tử nữa!. Cho nên hãy nhìn thẳng vào thực tế mà sống thật với chính mình. Bởi vì mộng ước vẫn chỉ là mộng ước. Đó là cuộc sống rất thường tình của con người trần gian, chẳng giúp cho chúng ta được gì... Nhưng với Thiên Chúa và trong Thiên Chúa thì mọi ao ước được Nước Hằng Sống trên Quê Trời thì ai cũng có thể đến đó được, với điều kiện là chúng ta phải khẩn thiết xin với Người là Chúa Cha trên Trời; là Đấng mà có thể ban phát tất cả cho con cái của Người.

Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn chúng ta hiểu được như vậy và tin tưởng làm vậy!. Ai như người phụ nữ tội lỗi thuộc xứ Samaria mà lại được đích thân Chúa giúp bà tìm Nước Hằng Sống chứ?. Sự việc Chúa tiếp chuyện cùng bà đã cho chúng ta thấy Tình Yêu Thiên Chúa quả nhân từ và độ lượng, Ngài ngay cả chẳng bắt lỗi bà một tiếng nào. Ngài thương yêu bà mà cảm thấy chua xót đắng đót cho cuộc đời của bà quá chăng, vì cả đời bà chẳng có ông nào là chồng chính thức cả!. Con người trần gian thì chẳng có một ai xứng đáng trước Tôn Nhan Thiên Chúa. Nên Chúa dạy chúng ta hãy xin với Chúa Cha ban cho hết thảy được Nước Hằng Sống, để tất cả con người trần gian sẽ không bao giờ còn bị khát nữa!. Chúng ta càng lao đầu vào những tranh chấp, bon chen, tham lam danh vọng quyền lực hão huyền, thì muôn đời chúng ta sẽ phải khát mãi, và muôn muôn đời chúng ta sẽ chẳng có cơ hội biết tìm đến và được đến Nước Hằng Sống.

Cuộc sống của chúng ta tất bật quá! Không có giờ để tìm kiếm Chúa. Vất vả quá chỉ vì luôn tìm kiếm những gì vô bổ mà không dành thời giờ cho Chúa. Chúa đâu có dạy chúng ta ôm đồm và tích lũy hết tất cả những gì không phải của mình, để mất cả nhân tính và tình người. Chúa đâu có dạy chúng ta phải tậu những thứ không cần thiết để làm hại cho chính linh hồn đời đời của chúng ta. Chúa đâu có
dạy chúng ta phải hại người anh chị em của chúng ta để chúng ta có thêm đất, nhà, xe, và những thứ vô tri vô giác không ban cho ta sự sống muôn đời. Nếu chúng ta có ít thời giờ để đi ra giếng múc nước như người đàn bà Samaria, có thể Chúa sẽ đến để mở lời gợi ý cho chúng ta biết tìm Nước Hằng Sống ở đâu trước khi quá trễ. Vì tất cả chúng ta đều là tội nhân không xứng đáng với lòng Thương Xót của Chúa.

Nhưng với cuộc sống lạc quan tin vào Thiên Chúa quan phòng, thì Thiên Chúa nhân từ của chúng ta, Ngài không muốn bỏ một ai tuy dù chúng ta tội lỗi ngụp lặn đến đâu. Người đàn bà Samaria tội lỗi đến thế mà được chính Chúa Giêsu tìm gặp bà mà ban cho bà một cơ may để tìm đến Nước Hằng Sống. Vâng, Chúa Giêsu
dạy bà và cả chúng ta nữa là hãy tìm kiếm Chúa mà xin với Người, Người sẽ thương mà ban cho. Trong Mùa Chay, Chúa Giêsu đã chứng tỏ lòng Thương Xót của Thiên Chúa, dạy chúng ta hãy trở về cùng Chúa. Hãy đấm ngực ăn năn hỡi tất cả chúng ta ai đang sống trong lỗi tội. Đây là cơ hội để chúng ta phải tìm trở về. Đây là dịp mà chúng ta phải cởi bỏ tất cả con người cũ để Chúa mặc trên thân xác chúng ta một y phục mới trắng tinh, mà chỉ có Thiên Chúa mới ban cho chúng ta được thôi!.

Với thân xác mới cùng với tâm hồn mới mà Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta, giúp chúng ta biết nhìn anh chị em mình với đôi mắt yêu thương và trìu mến. Biết dang đôi cánh tay mở rộng để chia sẻ thật nhiều với những anh chị em khốn cùng. Biết đi trên con đường ngay thẳng. Biết nhận thức được đâu là công và đâu là tội, để giúp nhau tìm thấy Chúa trong anh chị em, để cùng dẫn dắt nhau đến được Nước Hằng Sống và vĩnh cửu của Người. Vì Người và Nước của Người sẽ mang lại cho chúng ta hạnh phúc viên mãn muôn đời, Nơi mà chúng ta sẽ được Chúa dưỡng nuôi và tất cả chúng ta sẽ là anh chị em một nhà trong tình yêu của Thiên Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần. Amen.

Y Tá Của Chúa,
Tuyết Mai


Thứ Năm, 24 tháng 3, 2011

LẼ SỐNG 24.3

24 Tháng Ba
Vững Niềm Tin

Vào năm 1856 các nhà khảo cổ đã thực hiện một cuộc khám phá đầy thú vị tại đồi Palatino tại thành phố Roma. Khi đào bới những lớp đất bao phủ một trại lính Roma cổ, trên vách một bức tường, họ tìm thấy một cây thập giá được một người lính nào đó dùng đinh hay mũi dao khắc vụng về vào tường. Bên cạnh là hình một chàng thanh niên giơ tay chào kính cây thập giá. Trên cây thập giá có vẽ hình một người, nhưng đầu người ấy là hình một con lừa. Dưới hai hình vẽ, người ta thấy có viết hàng chữ: Alexamenos thờ lạy Chúa của hắn.

Các nhà khảo cổ cho rằng: Có thể bức tranh đã được thực hiện vào những năm 123 đến năm 126. Nếu sự phỏng đoán về niên hiệu này là đúng thì đây có lẽ là hình vẽ thập giá cổ nhất, nhưng lại là hình thập giá bị nhạo báng, chê cười: Nếu Thiên Chúa lại chết trên thập giá thì đây là hành động yếu hèn, khờ dại như hành động của một con lừa và cả những người thờ lạy Thiên Chúa trên thập giá cũng thế.

Vào năm 1870, các nhà khảo cổ lại tìm được câu trả lời mà họ nghĩ là của một chàng thanh niên mang niềm tin Kitô tên là Alexamenos. Ở một cột trụ bằng đá dựng hình thần Mars tức là vị thần chiến tranh, người ta khám phá thấy được khắc vào đó dòng chữ: "Alexamenos vẫn vững tin".

Vâng, hình ảnh Thiên Chúa chết treo trên thập giá là một hình ảnh khủng khiếp, yếu đuối, dại khờ. Nhưng Thánh Phaolô đã biện hộ cho hành động có thể gọi được là điên rồ của Thiên Chúa như sau:

"Tiếng nói của thập giá đối với những kẻ hư hỏng là điên dại, còn đối với các người được cứu rỗi, tức là chúng ta, thì là sức mạnh của Thiên Chúa. Thật vậy, người Do Thái đòi hỏi phép lạ, người Hy Lạp tìm kiếm sự khôn ngoan. Còn chúng tôi thì giảng về Chúa Kitô chịu đóng đinh vào thập giá. Người Do Thái cho điều đó là xấu xa, còn các người ngoại giáo thì cho là dại dột. Song với tất cả được Thiên Chúa tuyển chọn thì Chúa Kitô chịu đóng đinh là sức mạnh và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa".

Trích sách Lẽ Sống
(nguồn : thanhlinh.net)

LẼ SỐNG 23.3

23 Tháng Ba
Cầu Xin và Cảm Tạ

Một buổi sáng kia, một cô giáo dạy vườn trẻ chưng một bình hoa thủy tiên tuyệt đẹp trên chiếc bàn đặt ở giữa phòng. Khi các em bé nhỏ thơ ngây tung tăng tiến vào phòng học, có một em tròn xoe đôi mắt nhìn ngắm những chiếc hoa màu vàng lợt và em nói với cô giáo: "Có phải Chúa đã làm ra những bông này không, em muốn gọi dây nói để cảm ơn Chúa đã cho chúng ta những cái bông đẹp".

Nếu đất với trời được nối kết với nhau bằng dây điện thoại, thiết nghĩ Thiên Chúa sẽ phải đặt ra hai đường dây: Một đường dây cho những kẻ cầu xin và một đường dây dành cho những lời cám ơn. Và người ta sẽ thấy một đường điện thoại luôn luôn bận rộn. Trong khi đường dây kia thỉnh thoảng mới được dùng đến như một chuyện ngụ ngôn kia thuật lại như sau:

Hai Thiên thần được sai xuống trần gian, mỗi vị mang theo một chiếc giỏ. Họ chia tay nhau để đi khắp hang cùng ngõ hẻm, đến nhà các người giàu có cũng như những kẻ nghèo khổ, thăm các trẻ em cầu nguyện tại tư gia cũng như tất cả nam phụ lão ấu cầu nguyện tại các nhà thờ.

Sau một thời gian, hai Thiên thần gặp nhau đúng thời điểm đã hẹn để trở về trời. Chiếc giỏ của một thiên thần nặng như chì, còn chiếc giỏ của Thiên Thần kia có vẻ nhẹ như đựng toàn bông gòn.

"Ông mang gì mà nặng thế?", một Thiên Thần hỏi. Thiên Thần mang giỏ nặng trả lời: "Tôi được sai đến để thu nhận tất cả những lời cầu xin của nhân loại. Còn ông, cái giỏ của ông xem ra nhẹ nhàng thế?".

"À, tôi được sai đến để góp nhặt những lời cám ơn Thiên Chúa vì những ơn lành Ngài luôn ban cho họ".

Sự thật về hai cái cân nặng nhẹ của những lời cầu xin và những lời cám ơn trên cũng được bài Tin Mừng về 10 người phong hủi được Chúa Giêsu chữa lành bệnh thuật lại như sau: Một trong bọn họ thấy mình được làm sạch, bèn quay trở lại lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người. Mà người ấy lại là người xứ Samaria. Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: "Chớ thì không phải cả 10 người được làm sạch sao? Còn 9 người kia đâu? Sao không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại bang này?".

Ðể sống trọn lời Chúa, ước gì cuộc sống chúng ta được diễn ra hằng ngày theo lời khuyên sau đây: Hãy chỗi dậy với tâm hồn thư thái và hãy tạ ơn cho một ngày mới mình được yêu thương.


Trích sách Lẽ Sống
(nguồn : thanhlinh.net)

Thứ Ba, 22 tháng 3, 2011

LẼ SỐNG 22.3

22 Tháng Ba
Trái Tim, Bộ Óc Và Cái Lưỡi


Một ngày kia, trái tim, bộ óc và cái lưỡi đồng ý với nhau là sẽ không bao giờ nói những lời đơn sơ nhỏ bé nữa.

Trái tim phát biểu: "Những lời đơn sơ nhỏ bé chỉ làm bận rộn ta thôi. Chúng làm cho ta trở nên yếu đuối. Sống trong thời buổi này trái tim phải trở nên cứng rắn, cương quyết, chứ không thể mềm nhũn dễ bị xúc động được".

Bộ óc biểu đồng tình: "Vâng, đúng thế, thời buổi này chỉ có những tư tưởng cao siêu, những công thức tuyệt diệu, những chương trình vĩ đại mới đáng cho bộ óc suy nghĩ tới. Những lời đơn sơ nhỏ bé chỉ làm mất thời giờ, mà thời giờ là vàng bạc".

Cái lưỡi nghe trái tim và bộ óc nói thế không khỏi hãnh diện và tự cảm thấy mình trở nên rất quan trọng, mặc dù lưỡi chỉ là bộ phận bé nhỏ của thân thể, vì thế lưỡi cũng hội ý: "Hai anh quả thật đã đạt được tột đỉnh của sự khôn ngoan. Nếu hai anh nghĩ thế thì, tôi sẽ chỉ nói những danh từ chuyên môn, những câu nói văn hoa bóng bẩy, những bài diễn văn sâu sắc, hùng hồn".

Như đã đồng ý, kể từ dạo ấy, trái tim chỉ gửi lên lưỡi những lời nói cứng cỏi, bộ óc chỉ sản xuất và gửi xuống lưỡi những tư tưởng cao siêu và lưỡi sẽ không còn nói những lời đơn sơ nhỏ bé nữa.

Với thời gian, mặt đất trở nên tẻ lạnh như cảnh vật vào mùa đông: Không có lấy một chiếc lá xanh, không còn một cánh hoa đồng nội và lòng người cũng trở nên chai đá như những thửa ruộng khô cằn, nứt nẻ trong những tháng hè nóng bức.

Nhưng những ông già, bà cả vẫn còn nhớ những lời đơn sơ nhỏ bé. Ðôi lúc miệng họ vô tình bật phát nói ra chúng. Lúc đầu họ sợ bị bọn trẻ chê cười. Nhưng kìa, thay vì cười chê, những lời nói đơn sơ nhỏ bé lại được truyền từ miệng này sang miệng khác, từ bộ óc này đến bộ óc khác, từ trái tim này qua trái tim nọ. Cuối cùng, chúng xuất phát như những chiếc hoa phá tan lớp tuyết giá lạnh để ngoi lên làm đẹp cuộc đời.

Câu chuyện trên không tiết lộ những lời đơn sơ nhỏ bé là gì, nhưng chúng ta có thể đoán: đó có thể là hai chữ: "Xin lỗi!", thốt lên để xin nhau sự tha thứ.

Hay đó là lời chào vắn gọn: "Mạnh giỏi không?" đồng nghĩa với câu hỏi: "Tôi có thể làm gì được cho anh cho chị không?".

Nhất là hai tiếng : "Cám ơn!" thốt lên chân thành từ cửa miệng của những kẻ được giúp đỡ, của những con người mang công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, hay của những vợ chồng trung tín chia sẻ với nhau những ngọt bùi, đắng cay của cuộc sống hoặc của những người được bạn bè đỡ nâng sau những thất bại ê trề hay sau những lần vấp ngã.

Trích sách Lẽ Sống
(nguồn : thanhlinh.net)

Thứ Hai, 21 tháng 3, 2011

PHÂN ƯU

PHÂN ƯU

Giáo Xứ THUẬN PHÁT TGP.SAIGON nhận được tin :

Bà Cố MARIA
NGUYỄN THỊ TRÚC

Sinh năm 1933 tại Thanh Hoá

thân mẫu
Cha Giuse Trần Văn Hiển, SDB


đã an nghỉ trong Chúa
lúc 02g50 ngày Chúa Nhật 20.3.2011,
tại tư gia : Dốc Mơ, Xã Gia Tân 1, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.
Hưởng thọ : 78 tuổi

Nghi thức Phát Tang - Tẩn Liệm - Nhập Quan
lúc 17g30 ngày
Chúa Nhật 20.3.2011.

Thánh lễ An Táng lúc 09g00 ngày Thứ Ba 22.3.2011
tại nhà thờ Giáo Xứ Đức Huy,
Giáo hạt Gia Kiệm, GP.Xuân Lộc
và an táng tại Đất Thánh giáo xứ.

Xin được chia sẻ nỗi niềm bùi ngùi, thương nhớ Bà Cố Maria cùng Cha Giuse và tang quyến. Nguyện xin Chúa sớm đón nhận linh hồn Bà Cố Maria về hưởng Nhan Thánh Chúa.

Lm. Gioakim Lê Hậu Hán, Chánh Xứ
và Hội Đồng Mục Vụ
Giáo Xứ Thuận Phát
TGP.Saigon

LẼ SỐNG 21.3

21 Tháng Ba
Hãy Ðếm Những Vì Sao!

Trong cuốn truyện thuộc loại tự thuật, một người cha ghi lại câu chuyện và những ý nghĩ sau đây:

Một đêm kia, trong lúc đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé nhỏ của tôi bảo: "Bố ơi, con sẽ đếm xem trên trời có mấy ngôi sao". Sau đó, tôi nghe giọng nói êm đềm, dễ mến của con tôi bắt đầu đếm: 1, 2, 3, 4... rồi tôi chú tâm vào việc đọc báo, không còn để ý đến những tiếng đếm của nó nữa. Ðến khi đọc xong bài báo, tôi chú ý lắng tai và nghe tiếng đứa con gái tôi vẫn tiếp tục đếm: 223, 224. Ðếm đến đây nó ngừng lại quay sang tôi bảo: "Bố ơi, con không dè trên trời có nhiều sao đến thế".

Nghe con bình luận như trên, tôi chợt nhớ: Thỉnh thoảng tôi cũng thầm nói với Chúa: "Chúa ơi, để con thử đếm xem con đã nhận lãnh bao nhiêu ơn lành Chúa ban". Và càng đếm hình như trái tim tôi càng cảm thấy thổn thức, không phải vì âu sầu nhưng vì bị nhiều hồng ân đè nặng. Và tôi cũng thường bật lên lời bình luận như đứa con gái của tôi: "Lạy Chúa, con không dè đời con có nhiều ơn Chúa đến thế!"

Một trang nhật ký kia cũng mang một nội dung tương tự như những tư tưởng trên: Nếu có ai đưa tôi một đĩa đầy cát và bảo tôi tìm những mảnh sắt bé nhỏ nằm lẫn lộn trên cát, thì với đôi mắt và những ngón tay, tôi khó có lòng tìm ra được những mảnh sắt ấy. Nhưng với một thỏi nam châm tôi có thể dễ dàng và mau lẹ hút ra những vụn sắt nhỏ li ti trộn lẫn trong cát.

Một trái tim vô ân có thể so sánh với đôi mắt trần và những ngón tay vụng về của tôi mò mẫm trên đống cát, không tìm ra những ơn lành Thiên Chúa ban. Nhưng với một trái tim biết ơn, có thể so sánh với một thỏi nam châm, tôi có thể lướt nhanh qua mỗi giây phút của một ngày sống và khám phá ra nhiều hồng ân của Thiên Chúa, với một sự khác biệt là những mảnh sắt nhỏ trong đống cát của Thiên Chúa là những vật quý giá hơn vàng.

Nhiều người sống hời hợt nên thấy cuộc đời cũng như những biến cố xảy ra hằng ngày và những cảnh vật chung quanh mang toàn màu đen tối và vô giá trị như đất cát. Nhưng với những người sống có chiều sâu, các biến cố, những vật chung quanh, dầu tầm thường nhỏ bé đến đâu cũng là dịp để họ suy niệm và dâng lời cảm tạ: Một nụ hoa hồng chớm nở, những tia nắng trinh nguyên của một buổi sáng đẹp trời, một cái bắt tay thông cảm, một cử chỉ tha thứ, một sự giúp đỡ nho nhỏ.

Trích sách Lẽ Sống

Chủ Nhật, 20 tháng 3, 2011

CẦU NGUYỆN CHO CÁC NẠN NHÂN THIÊN TAI TẠI NHẬT BẢN

Hôm nay Chúa Nhật 20.3.2011, cộng đoàn giáo xứ Thuận Phát cùng hướng về các nạn nhân thiên tai tại Nhật Bản. Cả 3 thánh lễ trong ngày hôm nay - Chúa Nhật II Mùa Chay - Cha Gioakim Lê Hậu Hán, chánh xứ, đều mời gọi cộng đoàn cầu nguyện cho các nạn nhận đã thiệt mạng, những người may mắn còn sống sót hiện đang phải gánh chịu nhiều đau khổ, thiệt hại do trận động đất và sóng thần gây ra tại Nhật Bản hôm 11.3.2011.
  • Audio Thánh Lễ Chúa Nhật II mùa Chay năm A.
Cha Chánh Xứ dâng Lễ.
Ca đoàn Cécilia hát Lễ.

Mời bấm VÀO ĐÂY để nghe.

Hữu Toàn.

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY NĂM A (Mt 17, 1-9)

LẼ SỐNG 20.3

20 Tháng Ba
Ánh Sáng Ðô Thị

Một trong những cuốn phim hay nhất của Charlot và cũng có lẽ là một trong những cuốn phim hay nhất trong lịch sử điện ảnh, đó là cuốn phim có tựa đề là: "Ánh sáng đô thị". Ðó là câu chuyện tình của một gã lang thang và một cô gái bán hoa.

Nàng là một cô gái mù bán hoa bên vệ đường. Một nhà tỷ phú trong vùng ngày nào cũng dừng lại mua hoa của nàng. Ngày kia, gã lang thang là Charlot cũng dừng lại mua hoa của nàng. Cô gái bán hoa tưởng chàng là người tỷ phú. Thế là một giấc mộng đã chớm nở và nối kết hai tâm hồn. Nàng tưởng mình gặp được người mình mơ mộng từ lâu nay. Chàng thì hy vọng sẽ kiếm được tiền để chữa lành tật mù lòa của nàng.

Nhưng chẳng may, vì một sự ngộ nhận, chàng đã bị cảnh sát giam giữ. Sau một thời gian cầm tù, chàng được trả tự do. Chàng trở lại chỗ cũ để tìm người con gái mù, nhưng nàng không còn ở đó nữa. Nhờ tiền bạc trước kia chàng đã gửi cho nàng, người con gái đã được chữa lành và nay đứng trông coi một cửa hàng bán hoa rộng lớn hơn. Chàng đi qua đi lại nhiều lần, nhưng không thể nào nhận ra nàng. Tình cờ, một cánh hoa hồng rơi xuống đất, chàng nhặt lấy. Người con gái cười như nhạo báng. Chàng định bỏ đi, nhưng chợt nhận ra tiếng cười, chàng quay lại. Chàng hỏi một cách nhút nhát: "Cô đã thấy được rồi sao??". Người con gái nhận ra tiếng nói quen thuộc. Nàng từ từ nhặt cánh hoa và gắn lên áo chàng. Và nàng thốt lên trong cảm xúc: "Anh đấy sao?". Thế là cả hai đã nhận ra nhau và họ sẽ không bao giờ rời nhau nữa?

Cuộc gặp gỡ trong bất cứ một cuộc tình nào cũng là hình bóng của cuộc gặp gỡ trong đức tin giữa chúng ta và Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu và chúng ta là những con người có tự do. Do đó Thiên Chúa không nói với chúng ta bằng một ngôn ngữ nào khác hơn là tình yêu. Tình yêu không bao giờ là một cưỡng bách, nhưng là một mời gọi tự do.

Những người Do Thái thời Chúa Giêsu đòi hỏi những dấu lạ, những bằng chứng hiển nhiên về sứ mệnh của Ngài. "Ông hãy làm cho chúng tôi một dấu lạ".

Ngày nay thì trái lại, với những tiến bộ vượt bậc về khoa học kỹ thuật, con người dường như không còn tin ở phép lạ nữa. Tưởng mình có thể chế ngự và làm chủ vũ trụ, con người muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.

Chúng ta có thể ngạc nhiên tại sao Thiên Chúa không làm phép lạ nhãn tiền cho những người biệt phái hay cho những kẻ vô thần ngày nay. Tại sao Ngài không viết tên Ngài trên trời để xóa tan mọi nghi ngờ trong lòng người? Thiên Chúa có lối sư phạm của Ngài. Ngài đã không là Thiên Chúa của những điềm lạ cả thể, nhưng là một Thiên Chúa đã chọn lựa làm tôi tớ để chinh phục tình yêu và lòng tín nhiệm của con người. Thiên Chúa không những là một Thiên Chúa của quyền năng ở bên trên con người, nhưng còn là Thiên Chúa ở bên trong con người. Và, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu chính là dấu lạ cả thể nhất, bởi vì đó là dấu chứng của tình yêu? Chúa Giêsu đã nói đến dấu chứng đó khi dùng hình ảnh của tiên tri Giona. Giona được Thiên Chúa sai đến cho dân thành Ninivê. Ông tưởng Chúa sẽ dùng ông để làm một dấu lạ cả thể khiến dân thành sẽ tin vào sứ mệnh của ông. Nhưng cuối cùng, qua con người của ông, Thiên Chúa chỉ kêu mời sự hoán cải và tình yêu.

Thiên Chúa đến gặp gỡ chúng ta qua những sinh hoạt và những biến cố tầm thường nhất trong cuộc sống. Ngài mời gọi chúng ta nhận ra Ngài trong cái ăn, cái uống, cái mặc, trong tiếng cười, tiếng khóc, trong tất cả mọi gặp gỡ của chúng ta với tha nhân? Và ngay cả trong cái chết mà con người cho là điểm cuối cùng của cuộc sống, Thiên Chúa cũng có mặt.

Nhận ra Ngài như cô gái bán hoa đã nhận ra giọng nói của chàng Charlot, đó là ơn gọi của người Kitô chúng ta. Một đức tin trưởng thành không đòi hỏi và thử thách Thiên Chúa, nhưng tín thác và nhận ra dấu chỉ của Ngài qua những cái tầm thường nhất của cuộc sống.

Trích sách Lẽ Sống

Thứ Bảy, 19 tháng 3, 2011

MỪNG BỔN MẠNG DÒNG MTG THUẬN PHÁT VÀ GIÁO KHU 2 (THÁNH GIUSE)

Thứ bảy 19-3-2011 Giáo xứ Thuận Phát đã tổ chức rước Kiệu Thánh Giuse trước Thánh Lễ 05g00 sáng Mừng Kính Thánh Giuse, Bạn Trăm năm Đức Maria.

Cha Chánh Xứ đã dâng Thánh Lễ Tạ Ơn, Mừng Bổn Mạng Dòng MTG Thuận Phát, cộng đoàn giáo khu 2 (Khu Giuse) và những người đã chọn Thánh Giuse làm Bổn Mạng.

Ban điều hành giáo khu 2 đã tổ chức nghi thức dâng Lễ Vật với tâm tình Tạ Ơn Chúa nhờ lời cầu bầu của Thánh Giuse đã ban bình an cho tất cả các gia đình trong giáo khu trong năm qua.

Cuối Thánh Lễ Cha Chánh Xứ và cộng đoàn đã chúc mừng Dòng MTG Thuận Phát, các gia đình thuộc giáo khu 2 và quý vị chọn Thánh Giuse làm bổn mạng bằng một tràng pháo tay thật vui.


Sau Thánh Lễ cộng đoàn giáo khu 2 và các Soeurs Dòng MTG Thuận Phát đã chụp hình lưu với Cha Chánh Xứ.

19 giờ 30 cùng ngày Cha Chánh Xứ, HĐMVGX và cộng đoàn đã cùng nhau dâng giờ kinh Kính Thánh Giuse, cầu nguyện cách riêng cho các gia đình, các vị đã qua đời thuộc giáo khu 2.

Kết thúc giờ kinh, ông Trưởng Giáo Khu 2 nói lời cám ơn Cha Chánh Xứ cùng cộng đoàn đã bớt thời gian nghỉ ngơi để đến tham dự giờ kinh.


Mời xem thêm hình TẠI ĐÂY.

Hữu Toàn.

MỘT CHÚT SUY TƯ VỀ THÁNH GIUSE



Nói đến các Thánh thì Thánh Giuse là người có 4 đức tính tuyệt vời nhầt. Đức Công Chính, Đức Nhân Hậu, Đức Khiêm Nhường và Đức Khiết Trinh, Ngài là người ít nói nhất, trong Phúc Âm có nhắc tên Ngài nhưng không thấy Ngài nói gì cả, Ngài hoàn toàn thinh lặng đến độ Thiên Thần hiện ra 4 lần để báo tin cho Ngài, Ngài chỉ gật đầu vâng phục và thi hành, không thắc mắc hay hỏi han gì.

Lần thứ nhất Thiên Thần báo tin cho Ngài biết Đức Mẹ mang thai là do quyền năng của Chúa Thánh Thần và sẽ sinh Đấng Cứu Thế
(x.Mt 1,20) Lần thứ hai Thiên Thần báo tin Ngài phải đem Hài Nhi Giêsu và Mẹ Người trốn qua Ai Cập kẻo Hêrôđê lùng giết. (xem Mt 2,13) Lần thứ ba và bốn Thiên Thần lại hiện ra báo tin Ngài đem Hài Nhi Giêsu về lại quê quán Nazareth vì bạo vương Hêrôđê đã chết. (xem Mt 2,20)

Trở về Nazareth nếp sống của Ngài rất thanh đạm và giản dị không xa hoa hay cầu kỳ, biết Hài Nhi Giêsu là Đấng Cứu Thế nhưng Ngài không ỷ lại. Ngài tận dụng công sức lao động của mình với nghề Thợ Mộc để làm lụng nuôi nấng bao bọc Hài Nhi Giêsu và Mẹ Maria. Trong những giờ rảnh rỗi thì Ngài với Đức Mẹ và Chúa Giêsu cùng cầu nguyện.

Thánh nữ Têrêsa Tiến sĩ nói “Thánh Giuse trong trắng tựa Thiên Thần, nên Thiên Thần năng hiện đến với ông” . Xem cách Mẹ Maria đối xử với ông thì biết. Thiên sứ hiện đến với Mẹ Maria, Mẹ còn dè dặt cúi đầu bối rối
(xem Lc 1,29). Nhưng với Thánh Giuse thì Mẹ Maria sẵn sàng tin cậy trao duyên gởi phận. Ngay đối với một Thiên sứ mà Mẹ Maria còn giữ ý e dè, thì hỏi ai là người có diễm phúc được tín cẩn ? Thưa có ! Người ấy là Thánh Giuse. Tại sao thế ? Chính Thánh Giuse còn trinh khiết như các Thiên Thần, và hết tất cả các Thánh, chỉ có duy nhất Thánh Giuse là người được nhiều diễm phúc nhất. Ngoài tứ đức Công Chính, Nhân Hậu, Khiêm Nhường và Khiết Trinh, Ngài lại được Thiên Chúa ban thêm cho tứ Phúc.

Diễm phúc thứ nhất là được kết bạn trăm năm với Đức Trinh Nữ Maria. Diễm phúc thứ hai là được vinh dự làm Cha nuôi Chúa Giêsu. Diễm phúc thứ ba là lúc tuổi về già được Đức Mẹ và Chúa Giêsu chăm sóc rất chu đáo. Diễm phúc thứ tư là được an nghỉ trong tay Chúa Giêsu và Chúa Giêsu đã khép mắt cho Ngài đồng thời được các Thiên Thần ca hát ngợi khen.

Thánh nữ Maria Agrêđa nói “Thánh Giuse có một trí khôn và trí thông minh thiên phú, suy niệm tuyệt vời. Các nhân đức mỗi ngày một tăng triển, nhất là nhân đức khiết tịnh cao cả và sáng ngời. Vì lẽ Chúa muốn dùng Ngài để lập thân với Mẹ Maria để nuôi nấng chăm sóc Đấng Cứu Thế”

Thiên Chúa đã ban cho Ngài nhiều đặc ân để Ngài cứu giúp những ai chạy đến xin Ngài cầu bầu, đặc biệt Ngài hay ban cho chúng ta:

Lướt thắng cám dỗ nghịch đức trong sạch. Sám hối bỏ đàng tội lỗi. Tôn sùng Mẹ Maria Đồng Trinh. Khỏe mạnh về phần xác. Được an ủi lúc gặp đau khổ. Được ơn chết lành. Có người thừa tự trong gia đình Công Giáo.

Vì thế ma quỷ rất sợ Thánh danh Ngài.

Nói tóm lại Thánh Giuse là một vị Gia Trưởng gương mẫu nhất của các người Cha trên thế gian này và Ngày Father’s Day (Nhớ Ơn Cha) chúng ta không thể nào quên được vị Gia Trưởng gương mẫu.

Toàn thể Hội Thánh đã nhận Ngài là vị Thánh Cả và làm Quan Thầy tôn kính Ngài một cách đặc biệt hàng năm vào ngày 19/03.

DHD Sydney
(nguồn : thanhlinh.net)

LẼ SỐNG 19.3

19 Tháng Ba
Người Công Chính

"Ông Giuse, bạn bà là kẻ công chính và không muốn làm ố danh bà, nên đã định bỏ bà cách kín đáo".

Ðây là câu chuyện duy nhất trong Tân Ước diễn tả trực tiếp về con người của vị thánh mà Giáo hội mừng kính hôm nay: Thánh Giuse, bạn Ðức Trinh Nữ Maria, bổn mạng Giáo Hội Việt Nam.

Ðược Tân Ước gọi là "công chính", Thánh Giuse không những là người đã giữ đức công bình và trung thành chu toàn mọi bổn phận của một người chồng và một người cha.

Ðược gọi là "công chính", theo ý nghĩa của Kinh Thánh, là được Thiên Chúa công chính hóa, được Thiên Chúa cho tham dự vào sự công chính, sự thánh thiện của Người. Vì thế, người được công chính hóa xứng đáng để Thiên Chúa yêu thương, thương yêu thật sự vì Thiên Chúa không bao giờ đóng kịch, giả vờ như người nào đó đáng được thương yêu nhưng trong thực tế không phải thế.

Trong chiều hướng tư tưởng này, gọi thánh Giuse là kẻ công chính, Kinh Thánh muốn nói là: Ngài được Thiên Chúa công chính hóa và được Thiên Chúa yêu thương vì thật sự Ngài xứng đáng. Lần giở lại những trang Tân Ước có liên quan đến Thánh Giuse, chúng ta có thể khám phá ngay những đặc tính làm cho Ngài xứng đáng được Thiên Chúa yêu thương.

Trước tiên, là đặc tính hoàn toàn vâng phục Thánh ý Chúa. Trong trường hợp cuộc đời Thánh Giuse, Tân Ước diễn tả Thiên Thần là người thông báo cho Ngài biết ý Chúa. Vì thế, nghe lời Thiên Thần truyền, Thánh Giuse đã bỏ ý định ly dị Ðức Maria cách kín đáo. Ngược lại, Giuse đã trỗi dậy ngay trong đêm khuya để đem Con Trẻ và Mẹ Người trốn sang Ai Cập cũng như đem Con Trẻ và Mẹ Người về nước Israel, đến sinh sống tại thành Nagiaréth và âm thầm nhưng ân cần lấy sức lao động nuôi sống gia đình trải qua những tháng năm dài sau đó.

Tiếp đến Tân Ước nhắc đến Thánh Giuse trong biến cố thất lạc và tìm gặp Ðức Giêsu trong đền thánh. Qua đó chúng ta khám phá ra một đặc tính khác của Ngài hay nói đúng hơn một đặc tính mà các thánh ký viết Phúc Âm chú ý nhấn mạnh nơi Thánh Giuse: Không một lời nói nào của Ngài được ghi lại trong Tân Ước. Nhưng Thánh Giuse đã hùng hồn nói trong hành động, những hành động xem ra vô lý và đầy nguy hiểm, nhưng Ngài đã khiêm tốn, can đảm và kiên trì làm để thực hiện hoàn toàn thánh ý của Thiên Chúa.

Qua đó, Thánh Giuse xứng đáng là chủ gia đình của Nagiaréth, một gia đình thánh thiện, vì gồm ba tâm hồn luôn sẵn sàng lắng nghe và thực hành những gì Thiên Chúa muốn. Và cũng qua đó, Thánh Giuse trở nên công chính, được Thiên Chúa thực sự yêu thương.

Chúng ta hãy dâng lời cảm tạ Chúa đã trao tặng Thánh Giuse cho gia đình Nagiaréth và đặc biệt cho Giáo Hội Việt Nam. Nhờ lời cầu bàu của Thánh Cả Giuse, xin Chúa chúc lành cho những người chồng, cho những người cha, giúp họ can đảm và kiên tâm chu toàn bổn phận trong gia đình. Xin Chúa cũng chúc lành cho mọi gia đình và Giáo Hội Việt Nam, giúp mọi người sống xứng đáng với ơn gọi làm chứng nhân cho tình yêu Chúa.


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Sáu, 18 tháng 3, 2011

LẼ SỐNG 18.3

18 Tháng Ba
Ðất Thánh

Một giáo xứ miền quê nọ đã được thành lập từ lâu, nhưng chưa có được một ngôi nhà thờ xây cất hẳn hoi. Giáo dân lại nằm rải rác trong hai ngôi làng sát cạnh nhau. Khát vọng duy nhất của giáo dân là được có nơi thờ phượng đàng hoàng... Với sự hăng say bộc phát của những người nông dân, mọi người đã quảng đại đáp lại lời kêu gọi của các chức sắc trong giáo xứ: kẻ góp tiền, người cho vật dụng... Thế nhưng vấn đề cơ bản vẫn là: đâu là địa điểm xứng hợp nhất để xây cất nhà thờ. Người trong làng này thì muốn ngôi nhà thờ tọa lạc trong làng của mình. Người bên làng kia thì lại muốn ngôi nhà thờ được xây cất gần bên chỗ mình ở. Thế là hai bên cứ tranh luận, không bên nào muốn nhường bên nào. Tiền đã có sẵn, vật dụng cũng đã đầy đủ, nhưng không biết phải đặt viên đá đầu tiên bên làng nào.

Giữa lúc vấn đề địa điểm chưa ngã ngũ, thì một vấn đề lớn lại xảy ra: một nạn hạn hán trầm trọng đe dọa dân chúng trong cả hai làng. Thế là người ta chỉ còn nghĩ đến việc chống hạn hán hơn là xây cất nhà thờ. Nhưng sức người có hạn, việc dẫn thủy nhập điền không đạt được chỉ tiêu. Năm đó, toàn dân trong hai làng đều phải chịu cảnh đói khát.

Sống bên cạnh nhau, cho nên mặc dù ngăn cách về hành chính, dân hai làng vẫn coi nhau như bà con ruột thịt... Có hai gia đình nông dân nọ rất mực thương nhau và tương trợ nhau. Một người bên làng này luôn nghĩ đến cảnh đói khổ mà người bạn bên làng kia đang phải chịu. Thế là một đêm nọ, anh đã phân chia phần lúa thóc thu hoạch được trong vụ mùa vừa qua và lặng lẽ vác lên vai để mang qua cứu trợ người bạn của làng bên cạnh... Trong khi đó thì người bạn bên làng bên cạnh cũng có một ý nghĩ tương tự. Anh cũng hành động y như người bạn của mình. Cũng chính đêm hôm đó, anh đã sớt bớt phần lúa của mình để mang qua biếu người bạn ở làng kế bên... Giữa đêm tối, không hẹn hò, hai người bạn đã gặp nhau trong cùng một ý nghĩ và hành động. Không cần một lời giải thích, không cần một lời chào hỏi, hai người đã hiểu nhau: Họ bỏ bao lúa xuống đất và ôm trầm lấy nhau... Ðiểm gặp gỡ của tình bạn, của tình tương thân tương ái, của tình liên đới, của chia sẻ ấy đã được giáo dân của hai ngôi làng gọi là đất Thánh và không cần phải mất nhiều thủ tục để giải quyết, họ đã đồng thanh chọn địa điểm ấy làm nơi xây cất nhà thờ.

Nhà thờ là nơi hẹn hò: hẹn hò với Thiên Chúa, hẹn hò với con người. Không ai đến nhà thờ mà không tìm gặp được sức mạnh từ chính Chúa, sự an ủi đỡ nâng từ những người anh em của mình... Do đó, nhà thờ phải là điểm đến của mọi nẻo đường, nhà thờ phải là nơi hội tụ của mọi xây dựng, nhà thờ phải là giải đáp của mọi tranh luận... Người ta không thể xây dựng những ngôi nhà thờ nguy nga tráng lệ mà lại làm ngơ trước những người đang giẫy chết bên cạnh. Người ta không thể nhắm mắt đi đến nhà thờ trong khi bên lề đường có bao nhiêu kẻ lê lết trong đói khổ... Phải chăng, nhà thờ chỉ có thể xây dựng ngay chính trên đất Thánh của chia sẻ, của san sớt, của tình liên đới mà thôi? Phải chăng, việc đi đến nhà thờ cũng chỉ có ý nghĩa khi nó là điểm đến, là biểu trưng của chính những viên gạch bác ái mà người ta không ngừng xây dựng trong cuộc sống hằng ngày?

Trích sách Lẽ Sống

Thứ Năm, 17 tháng 3, 2011

LẼ SỐNG 17.3

17 Tháng Ba
Chia Sẻ Ánh Sáng Cứu Ðộ

Ngày xưa có một người cha có ba đứa con trai. Ông vốn sinh ra nghèo khổ, nhưng nhờ chuyên cần làm việc và cần kiệm, nên ông trở nên một điền chủ giàu có. Lúc về già, gần đất xa trời, ông nghĩ tới chuyện chia gia tài cho các con. Nhưng ông cũng muốn xem đứa con nào thông minh nhất để phó thác phần lớn gia sản của ông cho nó. Ông liền gọi ba đứa con đến giường bệnh, trao cho mỗi đứa năm đồng bạc và bảo mỗi đứa hãy mua cái gì có thể lấp đầy căn phòng trơ trọi mà ông đang ở.

Ba đứa con vâng lời cha cầm tiền ra phố. Người anh cả nghĩ rằng đây chỉ là một công việc dễ dàng. Anh ta ra tới chợ mua ngay một bó rơm rất lớn mang ngay về nhà. Người con thứ hai suy nghĩ kỹ lưỡng hơn: sau khi đi rảo quanh chợ một vòng, anh ta quyết định mua những bao lông vịt rất đẹp mắt.

Còn người con trai thứ ba, suy nghĩ đi, suy nghĩ lại: làm sao mua được cái gì với năm đồng bạc này, để có thể lấp đầy căn phòng lớn của cha mình. Sau nhiều giờ đắn đo, bỗng mắt chàng thanh niên hớn hở, anh ta lại căn tiệm nhỏ mất hút trong đường nhỏ gần chợ, anh ta mua cây đèn cầy và một hộp diêm. Trở về nhà, anh hồi hộp, không biết hai anh mình đã mua được cái gì.
Ngày hôm sau, cả ba người con trai đều họp lại trong phòng của cha già. Mỗi người mang quà tặng của mình cho cha: Người con cả mang rơm trải trên nền nhà của căn phòng, nhưng phòng quá lớn, rơm chỉ phủ được một góc nền nhà. Người con thứ hai mang lông vịt ra, nhưng cũng chỉ phủ được hai góc của căn phòng. Người cha có vẻ thất vọng. Bấy giờ người con trai út mới đứng ra giữa phòng, trong tay chẳng mang gì cả. Hai người anh tò mò chăm chú nhìn em, và hỏi: "Mày không mua cái gì sao?". Bấy giờ đứa em mới từ từ rút trong túi quần ra một cây nến và hộp diêm. Thoáng một cái, căn phòng đầy ánh sáng. Mọi người đều mỉm cười. Người cha già rất sung sướng vì quà tặng của đứa con út. Ông quyết định giao phần lớn ruộng đất và gia sản của mình cho con trai út, vì ông thấy anh ta đủ thông minh để quản trị gia sản của mình và nhờ đó cũng có thể giúp đỡ các anh của nó nữa.

Ðứng trước khó khăn thử thách, để kêu gọi sự bình tĩnh sáng suốt và tinh thần hợp tác, người ta thường nói với nhau: thà đốt lên một ngọn nến hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối. Cuộc sống của mỗi người chúng ta, cuộc sống của những người xung quanh chúng ta, cuộc sống của xã hội chúng ta có lẽ cũng giống như một căn phòng đen tối... Chỉ cần một người đốt lên một chút ánh sáng, những người xung quanh sẽ cảm thấy ấm cúng và phấn khởi. Một chút ánh sáng của một cái mỉm cười. Một chút ánh sáng của một lời chào hỏi. Một chút ánh sáng của một san sẻ. Một chút ánh sáng của tha thứ. Và một chút ánh sáng của niềm tin được chiếu tỏa qua sự vui vẻ chấp nhận cuộc sống... Một chút ánh sáng ấy cũng đủ để nâng đỡ ít nhất là một người mà chúng ta gặp gỡ, bởi vì không có một nghĩa cử nào được thực thi mà không ảnh hưởng đến người khác...

Trích sách Lẽ Sống

Thứ Tư, 16 tháng 3, 2011

LẼ SỐNG 16.3

16 Tháng Ba
Cuộc Săn Thỏ

Ðức hồng Y Carlo Martini, nguyên viện trưởng trường Kinh Thánh tại Roma và hiện là tổng giám mục Milano bên Italia, đã ghi lại trong quyển chú giải về Phúc Âm Thánh Gioan, câu chuyện sau đây:

Vào thế kỷ thứ ba, trong Giáo hội có vấn đề các tu sĩ ào ạt rời bỏ cuộc sống tu trì... Ðể giải thích cho hiện tượng này, một thầy dòng nọ đã đưa ra hình ảnh của một đàn chó đi săn thỏ. Một chú chó trong đàn đã bất chợt nhận ra một con thỏ. Thế là chú nhanh nhẩu rời đàn chó và vừa chạy theo con thỏ vừa sủa inh ỏi. Không mấy chốc, mấy chú chó khác cũng rời hàng ngũ để chạy theo. Và cứ thế cả đàn chó bỗng chạy ùa theo. Tất cả mọi con chó đều chạy, nhưng kì thực chỉ có một con chó là đã phát hiện ra con thỏ. Sau một lúc săn đuổi, chú chó nào cũng mệt lả, cho nên từ từ bỏ cuộc, bởi vì đa số đã không được nhìn thấy con thỏ. Chỉ duy chú chó đầu tiên đã phạt hiện ra con thỏ là tiếp tục đeo đuổi cuộc săn bắt.

Vị tu sĩ đã đưa ra kết luận như sau: "Ðã có rất nhiều tu sĩ đi theo Chúa, nhưng kỳ thực chỉ có một hoặc hai vị là đã thực sự thấy Chúa và hiểu được họ đang đeo đuổi điều gì. Số khác chạy theo vì đám đông hoặc vì họ nghĩ rằng họ đang làm được một điều tốt. Nhưng kỳ thực họ chưa bao giờ thấy Chúa. Cho nên khi gặp khó khăn thử thách, họ bắt đầu chán nản bỏ cuộc".

Cuộc sống của người Kitô chúng ta có lẽ cũng sẽ ví được với một cuộc săn thỏ... Ở khởi đầu, ai trong chúng ta cũng hăm hở ra đi, ai trong chúng ta cũng đều làm rất nhiều cam kết, nhưng một lúc nào đó, khi không còn thấy gì đến trước mắt nữa, chúng ta bỏ cuộc buông xuôi... Ða số trong chúng ta hành động theo sự thúc đẩy của đám đông mà không cần tìm hiểu lý do của việc làm chúng ta. Người ta lập gia đình mà không hiểu đâu là cam kết của đời sống hôn nhân. Người ta gia nhập đoàn thể này, đoàn thể nọ, chúng ta cũng hăng hái tham gia mà không cân nhắc kỹ lưỡng các lý do tại sao chúng ta tham dự. Và biết đâu, người ta đi nhà thờ, chúng ta cũng đi nhà thờ mà không bao giờ tự hỏi tại sao chúng ta đi nhà thờ. Người ta đi xưng tội rước lễ, chúng ta cũng đi xưng tội rước lễ mà có lẽ chưa bao giờ đặt ra câu hỏi nghiêm chỉnh tại sao chúng ta làm như thế... Dĩ nhiên, Ðức Tin của chúng ta cần phải được nâng đỡ từ gia đình, xã hội, bởi người khác. Nhưng chúng ta không thể quên được rằng trước hết Ðức Tin là một cuộc gặp gỡ cá vị giữa mỗi người và Thiên Chúa, Ðức Tin là một cuộc hành trình trong đó mỗi con người phải tự thấy con đường mình đang đi... Chúng ta không thể sống đạo, giữ đạo vì người khác. Người Kitô có một đồng phục chung là Ðức Ái, nhưng cuộc sống của mỗi người không phải vì thế mà được đúc sẵn theo một khuôn mẫu, theo những công thức có sẵn, theo những lôi cuốn của đám đông.

Trong cuộc hành trình Ðức Tin, chúng ta cùng đồng hành với người khác, nhưng mỗi người cần phải thấy rõ địa điểm mình đang đi tới. Có thấy rõ như thế, mỗi khi gặp mệt mỏi, chông gai thử thách, chúng ta mới có thể kiên vững tiếp tục tiến bước.

Trích sách Lẽ Sống