Chủ Nhật, 23 tháng 9, 2012

AUDIO THÁNH LỄ CHÚA NHẬT XXV THƯỜNG NIÊN NĂM B 23-9-2012

Audio Thánh Lễ Chúa Nhật XXV thường niên năm B 23-9-2012.
Cha khách dâng Lễ
Ca đoàn Cécilia hát Lễ.



Hữu Toàn.

Thứ Bảy, 22 tháng 9, 2012

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN NĂM B (Mc 9, 30-37)


Mời xem videoclip>>

GIÁ TRỊ
Sưu tầm
Giá trị của một con người không phải do địa vị của người đó, mà tùy vào khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó.

Để minh họa cho bài học này, sau đó Đức Giêsu đưa ra hình ảnh một em bé. Hình ảnh của một em bé đối với bất cứ người nào nhìn, cũng thấy dễ thương. Cho nên khi thấy một em bé, ai cũng muốn bồng ẵm, muốn ôm hôn, muốn cho nó ăn bánh, ăn kẹo. Tại sao người ta thương em bé và muốn cho nó đủ thứ như vậy? Có phải tại nó giỏi giang, tại nó giúp cho người ta được việc này việc nọ không? Thưa hoàn toàn không, đứa bé còn quá nhỏ, chưa biết là gì, chưa giúp ích được gì. Nhưng người ta thường nói chỉ vì người ta thương nó, thế thôi. Một tình thương hoàn toàn vô vụ lợi. Người ta cho nó cái này cái nọ, cũng không phải để trả ơn nó hay để mong nó làm gì giúp mình. Cũng chỉ vì thương mà phục vụ thôi. Chúa dùng hình ảnh em bé để minh họa cho bài học phục vụ trên kia: chúng ta cũng phải cư xử với mọi người theo kiểu chúng ta cư xử với một em bé: hết lòng yêu thương phục vụ một cách hoàn toàn vô vụ lợi. Người nào biết phục vụ kẻ khác như thế thì là phục vụ Chúa, và mới xứng đáng làm môn đệ Chúa.

Chúng ta hãy nhớ bài học của Chúa: giá trị con người không tùy vào địa vị của người đó, mà tùy vào khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó.

- Trong một gia đình, ai là người lớn nhất? Có phải là người cha, người chồng không? Bề ngoài là như vậy. Nhưng đối với Chúa thì chưa chắc. Người cha ấy, người chồng ấy nếu chỉ biết có ra lệnh bảo người này người nọ làm mọi việc, nếu chỉ biết ngồi đó mà chê món này dở, cái bàn này lau chưa sạch, nhà cửa này lộn xộn lung tung;

Nếu chỉ biết ăn no rồi đi chơi, chỉ biết có nhậu nhẹt và để mặc vợ con làm tất cả, thì đó chính là kẻ nhỏ nhất trong nhà, nhỏ hơn cả vợ mình, nhỏ hơn cả con mình. Bởi vì người chồng người cha ấy là một người vô ích.

- Trong một khu xóm cũng vậy, trong một cơ quan cũng vậy, trong một họ đạo cũng vậy. Nếu xét theo tiêu chuẩn của Chúa, thì kẻ lớn nhất không hẳn là người có địa vị cao nhất, không hẳn đó là ông trưởng xóm, không hẳn đó là ông giám đốc, không hẳn đó là ông chủ tịch Hội đồng Giáo xứ. Mà rất có thể kẻ được Chúa xét là lớn lại chính là một người mà ít ai để ý tới, người đó không có chức có quyền nào, người đó âm thầm ít nói, nói ít mà làm nhiều; luôn luôn chu toàn nhiệm vụ mình, luôn tìm cách giúp ích cho người khác.

- Thí dụ như linh mục Jean Marie Vianney. Cha là một người vừa kém thông minh và vừa có tư cách cục mịch như một người nhà quê. Sau nhiều năm học ở chủng viện, Vianney thi không đủ điểm nên đáng lẽ bị loại. Nhưng người ta chỉ thương tình mà cho đậu vớt và được phong chức linh mục. Vì thấy cha quá kém cõi. Đức Giám mục đưa cha đi làm cha sở một họ đạo nhỏ xíu ở miền quê mà giáo dân đã bỏ đạo gần hết, đó là họ Ars. Thế nhưng cha Vianney đã tận dụng tất cả các khả năng và sức lực Chúa ban để hết lòng phục vụ họ đạo. Mỗi ngày cha chỉ nghỉ ngơi 3, 4 tiếng đồng hồ. Nhưng ngồi tòa giải tội thì liên miên, có khi tới 16 tiếng đồng hồ mỗi ngày. Cha không có giờ nấu cơm, nên chỉ nấu một nồi khoai lớn để ăn dần cho suốt một tuần lễ. Dần dần cả họ Ars trở lại, thành một họ đạo sốt sắng sống gương mẫu. Giáo dân từ các họ khác cũng đến đó để dự lễ, để nghe giảng, để xưng tội. Có cả các tu sĩ, các linh mục, Giám mục từ khắp nơi đến để nhờ cha giúp đỡ về mặt linh hồn. Sau này người viết tiểu sử của cha đã nhận định: Nếu cả Giáo Hội nước Pháp mà có được chỉ một vài linh mục như cha Vianney thôi thì cả nước Pháp đã nên thánh. Đó mới là người lớn thật mặc dù chỉ là một linh mục học kém, một cha sở nhà quê, bởi vì sức phục vụ của cha thật là lớn.

Bài học của Chúa Giêsu hôm nay thật là dễ hiểu, nhưng lại khó thực hành.

Ai muốn làm lớn thì phải hạ mình phục vụ mọi người như một kẻ đầy tớ.

Giá trị của một con người không phải do địa vị của người đó, mà là do khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó.  

(tinmung.net)

THẾ GIỚI NHÌN TỪ VATICAN 14-20.9.2012

Thứ Hai, 17 tháng 9, 2012

Chủ Nhật, 16 tháng 9, 2012

CHỮ VIẾT TẮT SAU TÊN CAC LINH MỤC - TU SĨ VIỆT NAM

Giải thích chữ viết tắt sau tên các Linh Mục - Tu Sĩ dòng tại Việt Nam.

Các Linh Mục, Tu Sĩ trong các dòng ở Việt Nam thường viết thêm vào sau tên mình một vài mẫu tự. Ví dụ: 

Viện Phụ Phan Bảo Luyện, S.O.C.
Đan Sĩ Hoàng Thanh Trương, O.S.B.
Đan sĩ Trăng Thập Tự Võ Tá Khánh, O.C.D.
Sư Huynh Nguyễn Văn Tân, F.S.C
Lm. Mạnh Thư, C.M.C.
Lm. Phạm Trung Thành, C.Ss.R.
Lm. Trần Đức Anh, O.P.
Lm. Nguyễn Trung Tây, S.V.D
Lm. Vương Đình Khởi,O.F.M.
Lm. Savio Trần Ngọc Tuyên, O.H.
Lm. Trần Anh, S.J. 

 
Những mẫu tự viết tắt như: O.H. - O.C.D. - O.P. - F.S.C.- v.v…có ý nghiã gì? Nói chung, giáo dân và những người không phải Công Giáo, chẳng mấy ai hiểu ý nghĩa các từ trên là gì, xuất phát từ đâu? Do vậy, bài viết này có hai mục đích:

Thứ nhất: giải thích danh xưng các dòng tu tại Việt Nam. Ví dụ tại sao gọi là dòng Biển Đức, Cát Minh, Ngôi Lời v.v..

Thứ hai giúp độc giả hiểu các từ viết tắt như O.P., O.C.D., F.S.C., v

Sau đây là phần giải thích tên các hội dòng và các chữ viết tắt:
  • Ảnh Phép Lạ: Từ để dịch tiếng Medaille Miraculeuse trong tên của một tu hội có danh xưng tiếng Pháp là Les Filles de La Medaille Miraculeuse được dịch là Chị Em Ảnh Phép Lạ. Hội Dòng do Đức Cha Jean Liévin Sion Khâm lập năm 1947 tại Kontum. Hội Dòng có mục đích tạo điều kiện cho các thiếu nữ Công Giáo dân tộc thiểu sống đời tu trì thích hợp với khả năng, tâm tính và văn hóa của dân tộc thiểu số.
  • Biển Đức : Tiếng phiên âm của tên riêng Benedicti trong tiếng La Tinh hay Benedict trong tiếng Anh. Thánh Benedict lập ra dòng có tên quốc tế là Ordo Sancti Benedicti hay Order of St. Benedict, viết tắt là O.S.B. được dịch ra tiếng Việt là Dòng Biển Đức. Năm 1936 dòng Biển Đức thiết lập đan viện đầu tiên tại Đà Lạt. Người Trung Quốc phiên âm từ Benedict là 本篤 [běndǔ], Hán Việt đọc là Bản Đốc. Theo truyền thống, các tu sĩ dòng này thường thêm ba mẫu tự O.S.B. vào sau tên mình. Đan Sĩ: Hoàng Thanh Trương, O.S.B.
  • C.Ss.R. : Tiếng viết tắt của Congratio Sanctissimi Redemptoris có nghĩa là Dòng Cực Thánh Chúa Cứu Thế được giáo dân Việt Nam gọi tắt là Dòng Chúa Cứu Thế. Thánh Alphongso Maria Ligori thành lập dòng vào năm 1732 có tôn chỉ rao giảng tin mừng cho người nghèo. Các Linh Mục Dòng Chúa Cứu Thế thường thêm các chữ viết tắt C.Ss.R. vào sau tên mình: LM. Phạm Trung Thành, C.Ss.R.
  • Cát Minh : Tiếng phiên âm của địa danh Carmel. Carmel là tên một ngọn núi ở phía tây bắc Do Thái. Nơi đây vào năm 1155 đan viện có tên Anh ngữ là Order Of Our Lady Of Mt. Carmel được thành lập. Chi nhánh đan viện này tại Pháp có tên là Ordre des Carmes Déchaux. Dòng Cát Minh từ Pháp đến Việt Nam vào năm 1861 và thành lập nhà đầu tiên tại Sàigòn. Do vậy, đan viện có tên viết tắt là O.C.D. Người Việt gọi là Đan Viện Cát Minh. Người Công Giáo Trung Quốc phiên âm từ Mount Carmel là 迦 密 山 [jiàmìshàn], giọng Hán Việt đọc là Ca Mật Sơn. Theo truyền thống, các đan sĩ Cát Minh thường thêm ba mẫu tự O.C.D vào sau tên mình. Đan sĩ Trăng Thập Tự Võ Tá Khánh, O.C.D.
  • Dòng Tên : Tên là từ Nôm lấy dạng của từ Tiễn 箭: mũi tên trong Hán Việt. Từ Tên được dùng để thay thế cho từ ngữ Jesu trong danh xưng dòng có tên quốc tế là Societas Jesu hay Society of Jesus, dịch ra tiếng Việt là Dòng Chúa Giêsu và thường được viết tắt là S.J. Tại Việt Nam, vì phong tục kỵ húy tên các bề trên nên dòng này, thay vì nói Dòng Chúa Giêsu, đã được gọi là Dòng Tên. Dòng đã đến Việt Nam từ năm 1615 và hoạt động đến năm 1773. Sau đó, dòng đi khỏi Việt Nam trong 2 thế kỷ và trở lại hoạt động vào năm 1957. Theo truyền thống, các thành viên của Dòng Tên thường thêm hai mẫu tự S. J vào sau tên mình. Linh Mục Trần Anh, S.J. Khi Pháp ngữ còn thịnh hành ở Việt Nam, giới nhà tu còn đọc Dê Zúyt tức Jésuit để chỉ tu sĩ dòng Tên.
  • Đa Minh : 多米 tiếng phiên âm của tên riêng Dominic. Thánh Dominic là người Tây Ban Nha, đấng tổ phụ lập ra dòng có tên quốc tế là Ordo Praedicatorium hay Order of Preachers, viết tắt là O.P, được dịch ra tiếng Việt là Dòng Anh Em Thuyết Giáo. Dòng đến Việt Nam từ năm 1550 tại Đàng Ngoài. Người Việt quen gọi dòng này là Dòng Đa Minh. Đa Minh là tên của thánh tổ phụ được phiên âm ra tiếng Tàu nhưng đọc theo giọng Hán Việt. Người Tàu phiên âm tên riêng Dominic là 多米 [duōmǐ], Hán Việt đọc là Đa Minh. Theo truyền thống, các tu sĩ dòng này thường thêm hai mẫu tự O.P. vào sau tên mình. Lm Trần Đức Anh, O.P. 
  • Đồng Công : 同 工 hai từ Hán Việt có nghĩa cùng góp công, là tiếng nói tắt của cụm từ Đồng Công Cứu Chuộc để dịch từ ngữ La Tinh Coredemptricis trong tên của hội dòng Congregatio Matris Coredemptricis –Congregation of Mother Co Redemptrix, được viết tắt là C.M.C. và người Việt gọi là Dòng Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc hay vắn tắt gọi là Dòng Đồng Công. Dòng được Linh mục Đa Minh Trần Đình Thủ sáng lập từ năm 1953 tại Bùi Chu. Hiện nay dòng có hai cơ sở, một ở Thủ Đức, một ở Xuân Lộc. Tại hải ngoại dòng có chi nhánh ở tiểu bang Missouri, Hoa Kỳ.Theo truyền thống, các thành viên của dòng thường thêm ba mẫu tự C.M.C. vào sau tên mình. LM. Mạnh Thư, C.M.C. 
  • La San : Tiếng phiên âm của tên riêng La Salle. Từ này là tên họ của vị thánh người Pháp có tên là Jean Baptist De La Salle. Năm 1680 thánh Jean Baptist De La Salle thành lập dòng có tên quốc tế là Fratres Scholarum Christianarum – Brother of the Christian Schools, viết tắt từ Pháp ngữ là F.S.C. được dịch ra tiếng Việt là Dòng Anh Em Trường Kitô nhưng dân chúng quen gọi là Dòng Sư Huynh La San hay Dòng La San. Dòng chính thức hoạt động tại Việt Nam từ năm 1890. Theo truyền thống, các thành viên của dòng này thường thêm các mẫu tự F.S.C vào sau tên mình. Sư Huynh Nguyễn Văn Tân, F.S.C. 
  • M.E.P : Mẫu tự viết tắt của danh xưng chính thức bằng Pháp ngữ là Société des Missions Étrangères de Paris nghĩa là Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris. Đây không phải là một tu hội mà là một tổ chức của các linh mục triều được thành lập tại Paris năm 1658 có mục đích truyền giáo tại hải ngoại. Nhiều người còn vắn tắt gọi hội này là Hội Thừa Sai Paris. Năm 1658 hai Đức Giám Mục François Pallu và Pierre Lambert de La Motte thuộc Hội Thừa Sai Paris đã được Ðức Giáo Hoàng Alexandre VII đặt làm Giám Quản Tông Toà Ðàng Ngoài và Ðàng Trong ở Việt Nam. 
  • Ngôi Lời : từ Nôm để dịch từ ngữ La Tinh Verbi Divini trong tên của hội dòng quốc tế có tên là Societas Verbi Divini – Society of the Divine Word, được viết tắt là S.V.D. và người Việt gọi là Dòng Ngôi Lời. Từ Ngôi Lời theo nghĩa thần học có nghĩa là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Chúa Giêsu. Theo truyền thống, các Linh Mục tu hội dòng Ngôi Lời thường thêm 3 mẫu tự S.V.D. vào sau tên mình Lm Nguyễn Trung Tây, S.V.D. 
  • Nô Tỳ : Từ Hán Việt. Nô Tỳ 奴婢: đầy tớ gái là từ ngữ được dùng để đặt tên cho một Tu Hội có danh xưng chính thức là Tu Hội Nô Tỳ Thiên Chúa. Tu Hội do Linh Mục Phạm Ngũ Nhạc thành lập tại giáo xứ An Lạc, Sàigòn. 
  • Nữ Tử : Từ Hán Việt. Nữ Tử 女子: con gái được dùng để dịch từ Filles/ Daughters trong tên của Hội Dòng Les Filles de la Charité de Saint Vincent de Paul - Daughters of Charity of St. Vincent de Paul, được viết tắt là D.C. mà người Việt gọi là Tu Đoàn Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn. Dòng được sáng lập năm 1633 tại Pháp. Tới năm 2009, dòng có 49 cộng đoàn tại Việt Nam. 
  • Nữ Tỳ : Từ Hán Việt. Tỳ 婢: (1) Đầy tớ gái. (2) Tiếng đàn bà xưa tự xưng nhún mình như tì tử 婢子 nghĩa là kẻ hèn mọn này. Danh xưng Nữ Tỳ trong tên hội dòng Nữ Tỳ Thánh Thể nói lên tôn chỉ của các chị dòng là tôn sùng Thánh Thể. Dòng được sáng lập năm 1970 tại Biên Hòa. Từ ngữ Nữ Tỳ là nói theo kiểu bình dân, dư chữ Nữ, vì trong chữ Tì 婢 đã sẵn có chữ Nữ 女.
  • Phan Sinh : Tiếng phiên âm của từ Franciscain (Pháp ngữ) –Franciscan (Anh ngữ). Từ này do tên riêng của thánh Francisco mà ra và có nghĩa là đệ tử của thánh Francisco hay các thầy dòng Franciscains hay Franciscans. Người Việt phiên âm tên riêng Francisco là Phanxicô và từ Franciscain thành Phan Sinh. Thánh Phanxicô sinh tại Assisi nước Ý. Năm 1209 Ngài lập một dòng có tên quốc tế là Ordo Fratrum Minor – Order of Friars Minor, viết tắt là O.F.M. được chính thức dịch sang tiếng Việt là Dòng Anh Em Hèn Mọn nhưng dân chúng thường gọi là Dòng Phanxicô hay Dòng Anh Em Phan Sinh với ý nghiã là môn sinh của thánh Phanxicô. Theo truyền thống, các tu sĩ dòng này thường thêm 3 mẫu tự O.F.M. vào sau tên mình. Linh Mục Vương Đình Khởi,O.F.M. Người Tàu phiên âm tên San Francisco là 舊金山 [ jiù jīn shān], Hán Việt đọc là Cựu Kim Sơn. Vào khoảng năm 1972-1973, Tỉnh Dòng Anh Em Hèn Mọn Việt Nam bắt đầu sử dụng từ Phan Sinh, nhưng chỉ sử dụng giới hạn, thường là như một tĩnh từ, chẳng hạn: “Anh em phan sinh”, “tinh thần phan sinh”, truyền thống phan sinh”, … nhưng không gọi là “Dòng Phan Sinh” hay là “Thánh Phan Sinh”.
  • Quan Phòng : 觀 防 hai từ Hán Việt dùng để dịch từ Providence trong danh xưng của dòng có tên quốc tế là Sisters of Providence: Dòng Chúa Quan Phòng. Theo nguyên nghĩa, Quan 觀: xem xét. Phòng 防: ngăn ngừa, đề phòng. Quan Phòng: xem xét đề phòng. Người Công Giáo Việt Nam hiểu Quan Phòng là sự an bài của Thiên Chúa. Người Tàu dịch chữ Providence là Thiên Ý 天 意: ý trời hay Thiên Đạo 天 道: đạo trời. Dòng Chúa Quan Phòng đến hoạt động tại Việt Nam từ nam 1876 tạo Cù Lao Giêng. 
  • Salesien : Từ Pháp ngữ xuất phát từ tên họ De Sales của thánh Francois de Sales, cha thánh Joannes Don Bosco đã đặt tên cho các tu sĩ của ngài là Salesien (tiếng Pháp) hay Salesian (tiếng Anh) nghĩa là các đệ tử thánh Sales. Ban đầu Cha Gioan Don Bosco cùng với 17 cộng sự viên đã lập ra hội dòng Thánh Francois De Sales vào năm 1859. Sau này hội dòng được đặt tên chính thức là Societas Salesiana Sancti Joannes Don Bosco – Salesians of St. John Don Bosco, viết tắt là S.D.B. Dòng bắt đầu hoạt động tại Hà Nội từ năm 1952. Người Việt thường gọi dòng này là Dòng Salesien Don Bosco, Dòng Don Bosco hay Dòng Salesien. Theo truyền thống, các thành viên của Dòng Salesien Don Bosco thường thêm ba mẫu tự S. D. B vào sau tên mình. Linh Mục Nguyễn Hữu Quảng. S.D.B. 
  • Thiện Bản : từ được dùng để dịch từ ngữ tiếng Pháp Ouevre trong danh xưng chính thức của dòng Ouevre de Saint Paul mà người Việt gọi là Dòng Thánh Phaolô Thiện Bản. Thiện Bản là từ Hán Việt. Thiện 善: Tốt. Bản: 本:quyển sách. Từ Thiện Bản nói lên tôn chỉ của dòng là hoạt động chuyên biệt về ngành in ấn những tác phẩm văn hóa tốt để loan báo Tin Mừng và nâng cao trình độ văn hóa quần chúng. 
  • Tiểu Đệ : 小弟 hai từ Hán Việt có nghĩa là em trai để dịch danh xưng chính thức của hội dòng có tên tiếng Pháp là Les Petit Frères de Jésus - Little Brothers of Jesus mà người Việt gọi là Dòng Tiểu Đệ Chúa Giêsu. Dòng được sáng lập năm 1933 tại Pháp và bắt đầu hoạt động tại Việt Nam từ năm 1954. 
  • Tiểu Muội : 小妹 hai từ Hán Việt có nghĩa là em gái để dịch danh xưng chính thức của hội dòng có tên Pháp là Les Petites Soeurs du Pr. Charles de Foucauld mà người Việt gọi là Dòng Tiểu Muội Chúa Giêsu. Dòng được sáng lập vào năm 1939 tại sa mạc Sahara. Tại Việt Nam dòng có 6 cộng đoàn. 
  • Trợ Thế : 助 世 từ Hán Việt có nghĩa là trợ giúp thế gian để dịch từ ngữ La Tinh Hospitalis trong tên của hội dòng Ordo Hospitalis – Brothers of the Hospitaller Order of St. John of God mà người Việt gọi là Dòng Trợ Thế Thánh Gioan Thiên Chúa, được viết tắt là O.H. Dùng từ Trợ Thế để dịch từ Hospitalis là bệnh viện để nói lên tôn chỉ của dòng là phục vụ bệnh nhân và người nghèo khổ. Dòng do Thánh Gioan Thiên Chúa sáng lập năm 1572 tại Tây Ban Nha và đang hoạt động tại 2 điạ điểm ở Việt Nam là Tân Hiệp và Quang Trung tỉnh Đồng Nai. LM. Savio Trần Ngọc Tuyên, O.H. 
  • Vinh Sơn : Từ phiên âm của tên riêng Vincent. Năm 1625 thánh Vincent de Paul, người Pháp thành lập tu đoàn truyền giáo có tên quốc tế là Congregation Missionis viết tắt lá C.M. được dịch ra tiếng Việt là Tu Đoàn Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn. Theo truyền thống, các thành viên tu đoàn thường thêm hai mẫu tự C.M vào sau tên mình. Lm Nguyễn Viết Chung, C.M. 
  • Xitô: Từ phiên âm từ tiếng La Tinh Cistercianus trong tên của hội dòng Santus Ordo Cistercianus – St. Order of Cistercians, được viết tắt là S.O.C. và người Việt gọi là Dòng Xitô Thánh Gia Việt Nam hay vắn tắt hơn là Dòng Xitô. Dòng được sáng lập năm 1918 tại Quảng Trị. Hiện nay dòng Xitô có các Đan Viện ở nhiều nơi tại Việt Nam. Viện Phụ Phan Bảo Luyện, S.O.C. 
  • Xuân Bích : Tiếng phiên âm của địa danh Saint–Sulpice. Linh Mục Olier lập ra một hội tại giáo xứ Saint Sulpice ở Pháp và đặt tên cho hội là Compagnie des Prêtres de Saint Sulpice, viết tắt là P.S.S. được dịch ra tiếng Việt là Hội Linh Mục Xuân Bích. Từ « SULPICE » được phiên âm thành « XUÂN BÍCH », khởi hứng từ một câu thơ chữ Hán “ Xuân Thảo Bích Sắc 春草碧色: sắc cỏ xuân xanh biếc”. Đầu thập niên 30 hội này đến hoạt động tại Hà Nội. Theo truyền thống, các Linh Mục thành viên hội thường thêm 3 mẫu tự P.S.S. vào sau tên mình. Linh Mục Vincent Bùi Đoàn, P.S.S.
Tác giả Nguyễn Long Thao
(VietCatholic News)

ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊDICTÔ XVI TÔNG DU LIBAN #4

ĐỨC THANH CHA GẶP GỠ GIỚI TRẺ LIBAN

ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊDICTÔ XVI TÔNG DU LIBAN #3

ĐỨC THÁNH CHA KÊU GỌI HOÀ BÌNH VÀ BẢO VỆ SỰ SỐNG

AUDIO THÁNH LỄ CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN NĂM B 16-9-2012

Audio Thánh Lễ Chúa Nhật XXIV thường niên năm B 16-9-2012.
Cha khách dâng Lễ.
Ca đoàn Cécilia hát Lễ.



Hữu Toàn.

ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊDICTÔ XVI TÔNG DU LIBAN #2

ĐỨC THÁNH CHA KÝ TÔNG HUẤN
HẬU THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC TRUNG ĐÔNG

Thứ Bảy, 15 tháng 9, 2012

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN NĂM B (Mc 8, 27-35)



THÁCH ĐỐ CỦA NIỀM TIN

Sưu tầm
Một giai thoại kể lại rằng: Có một thanh niên thích chơi những trò mạo hiểm để tìm cảm giác mạnh. Anh đem theo một chiếc dù đến bên bờ vực thẳm, định chơi cho thoả chí mạo hiểm. Không biết loay hoay thế nào, anh trượt chân. Đang trên đá lăn dài xuống vực sâu, may mắn được một cành cây mọc chìa ra. Thế là anh lơ lửng trên cành. Thật hú vía, tuy chưa qua hết nguy hiểm, nhưng thế này còn có hy vọng thoát được.

Ngước mắt lên bờ vực, anh không thấy bóng dáng một ai. Nhìn xuống, anh choáng váng vì vực quá sâu. Anh cũng biết không thể nào đu lơ lững mãi trên cành được, vì thế, cách cuối cùng là anh cầu nguyện. Thế là anh cầu nguyện: lậy Chúa, xin cứu con, con xin hứa làm bất cứ điều gì Chúa muốn.

Bỗng anh nghe như có tiếng Chúa nói: Được, Ta sẽ cứu con. Nhưng trước khi cứu, Ta muốn biết là con có thực sự tin rằng Ta làm được việc này không?

- Lạy Chúa, con tin chứ! Con tin chắc là Chúa cứu được con mà! Cứu ngay đi Chúa ơi, con mỏi tay lắm rồi!

- Được, nếu con tin Ta thì hãy buông tay ra.

Chàng thanh niên vẫn bám chặt vào cành cây chứ không chịu buông. Rồi anh ngẩng lên bờ vực và la lớn: “Có ai trên đó không, cứu tôi với’.

Thưa anh chị em, giả sử chúng ta là chàng thanh niên đó, liệu chúng ta có dám buông tay ra không? Đức tin của chúng ta có đủ mạnh để tin vào quyền năng của Chúa qua những nghịch cảnh đang xẩy ra trong đời, hay chúng ta sẽ tìm cách bám víu vào những thực tại khác?

Muốn đi theo ai, muốn ở với ai, thì phải biết rõ người ấy, biết người ấy xuất thân từ đâu và có đáng tin không. Muốn “đi theo Chúa Giêsu và ở với Chúa Giêsu” thì người Kitô hữu phải biết Chúa Giêsu là ai, đường lối của Ngài như thế nào? Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta hiểu về con người Giêsu ấy.

Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ câu hỏi: “Người ta bảo Thầy là ai?” trước khi đòi hỏi chính các môn đệ của mình phải bày tỏ ý kiến riêng, Chúa Giêsu đã thực hiện một cuộc thăm dò ngay trong nội bộ mình xem người khác nói về Ngài như thế nào? Có nhiều ý kiến, nhưng rõ ràng dân chúng đã thấy được một số nét căn bản nơi con người Giêsu. Nơi giáo huấn của Ngài, người ta thấy được sức sống và sự siêu thoát khỏi những ràng buộc vô lý của lề luật. Thế nhưng, điều quan trọng không phải chỉ biết đúng về Chúa Giêsu mà con phải biết đủ về Ngài nữa: Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, Ngài là Thiên Chúa thật và là người thật.

Nhờ các phương tiện truyền thống và nhờ học hành, kiến thức của ta ngày càng gia tăng. Nhưng ta có một sự hiểu biết sâu xa về Chúa chưa? Cần phải xác tín như Thánh Phaolô: “Cái lợi tuyệt vời là được biết Chúa Giêsu kitô, Chúa của tôi”(Pl 3,8).

Các môn đệ là những người “ở với Chúa Giêsu”, cũng ăn cùng uống, gắn bó, gần gũi với Ngài và được Ngài dạy dỗ đặc biệt cùng chứng kiến nhiều phép lạ, giờ đây, các ông phải bày tỏ lập trường. Chắc hẳn giây phút thinh lặng nặng nề khi bị hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Phêrô thay mặt anh em tuyên xưng đức tin “Thầy là Đấng Kitô”. Phêrô đã cứu nguy cho anh em! Thế nhưng sau đó ông lại can ngăn Thấy Giêsu. Ông đã cản Chúa Giêsu làm theo ý Chúa Cha. Và như vậy là đi theo đường lối của Satan. Rõ ràng ông chưa hiểu bao nhiêu về đường lối của Chúa. Thực ra, ông và các bạn đã hiểu Đấng Kitô theo nghĩa trần thế, một Đấng Cứu thế hiển hách, oai phong… thành ra ông không sao hiểu được việc “Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ và phải chết…”.

Thưa anh chị em,

Để biết Chúa Giêsu Kitô là ai và đâu là đường lối của Ngài, ta cần phải giũ bỏ những hình ảnh trần tục ta vẫn có về Chúa Kitô, những hình ảnh do con người tạo ra: một Đức Kitô của quyền lực, của thống trị… Nên nhớ bài học cùng Ngài: “Anh em hãy học cùng Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường”.

Vậy thì, đối với tôi, Đức Giêsu Kitô là ai? Sau khi đã tin vào Chúa một thời gian, ta vẫn có thể đặt lại câu hỏi này: Bấy lâu nay, Đức Giêsu là ai đối với tôi? Đức Giêsu không thay đổi, “hôm qua cũng như hôm nay và mãi mãi” Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất. Nhưng mỗi ngày, sau mỗi biến cố, có khi ta lại khám phá ra những nét mới mẻ nơi sự phong phú của Ngài. Đời ta luôn là một chuỗi những câu trả lời cho câu hỏi của Chúa Giêsu: “Còn con, con bảo Thầy là ai?”. Và cuộc đời của ta sẽ chuyển biến tuỳ theo câu trả lời này của mình.

Trong đêm canh thức với hai triệu bạn trẻ từ các nước trên thế giới về Rôma tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 15 (15-20/8/2000) Đức Giáo Hoàng Gioan – Phaolô II đã hỏi lại các bạn trẻ câu hỏi của Chúa Giêsu: “Các con nói Đức Giêsu là ai?” – Có khó tin trong thế giới hôm nay không? Có khó tin trong Ngàn Năm Thứ Ba này không? Vâng, khó đấy. Không cần phải dấu diếm điều này. Khó khăn, nhưng với sự trợ giúp của ơn thánh, điều đó vẫn có thể làm được, như Chúa Giêsu đã giả thích cho Phêrô: “Chẳng phải bởi xác thịt hay máu huyết đã mạc khải cho anh điều đó, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”(Mt 16,17).

“Ngày nay, để tin vào Chúa Giêsu, để theo Chúa như Phêrô, Tôma, các Tông Đồ tiền khởi và các chứng nhân, như trong quá khứ, đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn một lập trường, sự lựa chọn này nhiều khi gian nan đến độ là một cuộc tử đạo mới: cuộc tử đạo của những người, hiện tại cũng như quá khứ, được mời gọi lội ngược giòng chảy để đi theo Thầy Chí Thánh”… Hôm nay các bạn tụ họp nơi đây để tuyên xưng rằng trong thế kỷ này, chúng ta sẽ không để mình trở thành trong thế kỷ này, chúng ta sẽ không để mình trở thành dụng cụ của bạo lực và tàn phá. Chúng ta sẽ đấu tranh gìn giữ hoà bình dù có phải hy sinh tính mạng. Chúng ta sẽ không thối lui trước một thế giới mà người ta còn chết vì đói, thất học và không có việc làm. Chúng ta sẽ bảo vệ sự sống ở mỗi thời kỳ của nó. Chúng ta sẽ chiến đấu tới cùng để làm trái đất này dễ sống hơn cho mọi người”.

Các bạn trẻ thân mến của thế kỷ đang bắt đầu, khi nói “vâng” với Chúa Giêsu, các bạn có thể nói “vâng” với tất cả các lý tưởng cao đẹp của các bạn. Tôi cầu xin Chúa Giêsu thống trị trong lòng các bạn và trong tất cả nhân loại trong thế kỷ mới này cũng như trong ngàn năm mới này. Đừng sợ phó thác cho Ngài. Ngài sẽ dẫn dắt các bạn, sẽ ban cho các bạn sức mạnh để theo Ngài trong mọi ngày và trong mọi tình huống.

Cầu xin Đức Mẹ rất thánh, người Trinh Nữ nói “Xin vâng” với Thiên Chúa trong suốt cuộc đời Người, xin Thánh Phêrô và Phaolô và các Thánh đã thắp sáng cuộc hành trình của Giáo Hội qua mọi thế hệ, gìn giữ các bạn luôn trung tín với quyết tâm thánh thiện này (ĐGH Gioan Phaolô II 19/8/200).

(tinmung.net)

HIỆP THÔNG

HIỆP THÔNG

Kính thưa Quý Cha, Quý Tu sĩ và Quý Cộng đoàn,
Hội Đồng Mục Vụ Giáo xứ Thuận Phát vừa được tin :

Bà MARIA VŨ THỊ TÂM
sinh năm 1935 tại Nam Định

Thân mẫu ông Đaminh Nguyễn Văn Tuân
Uỷ Viên Trật Tự Hội Đồng Mục Vụ
Giáo Xứ Thuận Phát

đã an nghỉ trong Chúa lúc 01g05, Thứ Bảy 15.9.2012
tại tư gia : 3894 ấp Phú Lâm 1, xã Phú Sơn, huyện Tân Phú, Đồng Nai.
hưởng thọ 78 tuổi.

Nghi thức tẩn liệm lúc 14g00 Thứ Bảy 15.9.2012.

Thánh lễ an táng lúc 07g00, Thứ Hai, ngày 17.9.2012
tại Nhà thờ Giáo xứ Phú Lâm, Giáo Hạt Phương Lâm, Giáo Phận Xuân Lộc.

Sau đó mai táng tại nghĩa trang Giáo xứ Phú Lâm, Đồng Nai.

Kính xin Quý Cha, Quý Tu sĩ và Quý Cộng đoàn hiệp ý cầu nguyện cho Linh Hồn MARIA sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa.


Kính Báo 
Hội Đồng Mục Vụ
Giáo Xứ Thuận Phát

ĐỨC TỔNG GIÁM MỤC ĐẠI DIỆN TOÀ THÁNH THĂM GIÁO XỨ HÀ ÚC GIÁO PHẬN HUẾ

Đúng 8 giờ 30 phút, ngày 13 tháng 09 năm 2012, toàn thể giáo dân giáo giáo xứ Hà Úc nói chung, giáo dân và các linh mục của Hạt Hải Vân, đã nô nức đón chào Đức Tổng Giám Mục Leopoldo Girelli, Đại Diện không thường trú của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI tại Việt Nam và Đức Tân Tổng Giám Mục Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng, Tổng Giáo Phận Huế nơi kilômét đầu tiên của mảnh đất cát trắng giáo xứ Hà Úc.

Giáo xứ Hà Úc, Huế đón tiếp Đức Tổng Giám Mục Đại Diện Toà Thánh

Giáo xứ Hà Úc nằm trong địa giới xã Vinh An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cách trung tâm thành phố Huế chừng 33 km theo đường bộ, về hướng đông nam. Hướng đông giáp Biển Đông (hay Thái Bình Dương); phía tây giáp đầm phá Tam Giang (nối dài) hay còn gọi là phá Tư Hiền. Giáo xứ Hà Úc có hơn 3000 giáo dân, với nông nghiệp là chính nên đời sống còn nhiều khó khăn, nhưng bù lại giáo dân Hà Úc có một đời sống đạo rất tốt và có bề dày đức tin từ năm 1886, và đến năm 1894 giáo xứ Hà Úc được hình thành.
(tonggiaophanhue.net)

ĐỨC THÁNH CHA BÊNÊDICTÔ XVI TÔNG DU LIBAN #1

ĐỨC THÁNH CHA ĐẾN BEIRUT
14.9.2012

THẾ GIỚI NHÌN TỪ VATICAN 09-16.9.2012