Chủ Nhật, 11 tháng 1, 2015
LINH MỤC, NGƯỜI LÀ GÌ ?
LINH MỤC, NGƯỜI LÀ GÌ ?
Linh Mục, người Cha tinh thần hay cha linh hồn, người sinh cho Chúa nhiều con cái qua bí tích Rửa Tội, nhưng nhiều khi được gọi CHA làm tôi dễ thấy mình cao cả và quên đi vai trò hy sinh, dang tay cứu độ mà Đức Kitô, Linh Mục Thượng phẩm đã chọn gọi tơi để thi hành.
Một sáng sớm mùa Đông Canada, tuyết vẫn còn phủ trắng, cao đến mắt cá chân trên các lối đi. Bà Catherine, bà bếp Cha Sở bước chầm chậm và cẩn thận quay về nhà xứ sau Thánh Lễ ban sáng. Vừa đặt chân trên bậc thềm nhà xứ, thấy tôi đang quét tuyết, bà vui vẻ chào tôi và bảo: "Peter, mang cây chổi quét tuyết tới đây !" Tôi tươi cười tiến tới gần bà với cây chổi quét tuyết đu đưa trên tay, chưa đón ra ý bà muốn nhờ tôi chuyện gì. Bà Catherine tự nhiên kéo váy đầm cao lên một chút và chìa đôi giày bám đầy tuyết, thản nhiên bảo tôi: "Lấy chổi phủi dùm tuyết bám giày, để tôi đi vào không làm dơ thảm nhà xứ !"
Nụ cười vụt tắt trên môi. Tôi không nghĩ là mình không hiểu tiếng Anh. Rõ ràng quá mà: Lấy chổi phủi sạch tuyết bám giày bà đầm Catherine. Tôi cúi mặt chần chừ. Bà Catherine vẫn giữ cao váy đầm, giơ đôi giày bám đầy tuyết, thúc giục: "Phủi dùm mau đi để tôi còn kịp vào chuẩn bị cà phê sáng cho Đức Ông Robert !" Im lặng và cẩn thận, tôi cầm chổi, nhẹ nhàng phủi tuyết bám giày bà Catherine, từng chếc một. Bà cười mãn nguyện, cám ơn tôi và nhanh nhẹn đẩy cửa bước vào nhà xứ.
Cửa chánh nhà xứ đóng ‘rầm’ một tiếng chận đứng ánh mắt buồn của tôi đang dõi theo bà Catherine. Tôi xấu hỗ cúi xuống đưa mắt nhìn lại chính mình, lần dò xuống tận bàn chân. Dù khoát chiếc áo Mùa Đông để ra ngoài trời quét tuyết, nhưng bên trong tôi vẫn đàng hoàn nghiêm túc với tu phục Linh Mục: áo sơ mi dài tay màu đen, cổ côn trắng hẳn hoi, quần đen ủi thẳng nếp, giày da mùa Đông loại đắt tiền cổ cao, đế dày. Tôi học và chịu chức Linh Mục ở Canada, dáng vẻ phong thái lịch lãm không kém người da trắng. Nếu hoàn cảnh đất nước cho phép, tôi về lại quê nhà, chắc sẽ được đánh giá cao, không thua các Linh Mục được du học ngày xưa. Tôi nghĩ vậy.
Cái nhục phủi tuyết bám giày bà đầm len vào máu, bốc cao tận đỉnh đầu. Ném chổi quét tuyết trả lại góc tường nhà xứ. Lặng lẽ, tôi trở lại phòng làm việc, đóng cửa khá mạnh tay, để toàn thân rơi phịch nặng nề trên chiếc ghế bành làm việc. Tại sao bà Catherine không gọi tôi là CHA ? Vì tôi mới làm Linh Mục và còn làm phó cho Đức Ông Robert chăng ? Tại sao bà Catherine dám bảo một Linh Mục phủi tuyết bám giày bà ? Bà là bà đầm da trắng, còn tôi là tên tóc đen, da vàng đến từ một nước nghèo chăng ? Da màu phải phục vụ da trắng hay người nghèo phải phủi tuyết bám giày người giàu chăng ? Nhiều câu hỏi tương tự quanh đi quẩn lại trong tôi.
Cái nhục của một Linh Mục đã phủi tuyết bám giày bà đầm được tô đậm nét. Lòng tự ái dân tộc, niềm tự hào nòi giống rực lửa trong tôi. Tôi mạnh dạn, hung hăng đứng lên, định đi tìm bà Catherine và Đức Ông Robert để làm lớn chuyện, làm cho ra lẽ. Bà Catherine phải xin lỗi tôi về chuyện đã không gọi tôi là Cha và vì đã dám bảo một ông Cha phủi tuyết bám giày bà. Gọi một Linh Mục bằng tên, thiếu lòng đạo đức rõ ràng. Bảo một Linh Mục phủi tuyết bám giày, thiếu lòng kính trọng chức thánh không thể chối cãi.
Cái đứng dậy quyết liệt, cái vung tay tức giận làm văng cây Thánh Giá trên bàn làm việc xuống sàn nhà. Ảnh Chúa Chuộc tội từ lâu vẫn đứng vô tri trên bàn làm việc, ngay trước mặt tôi, rất kề cận, nhưng nhiều khi tôi đã không thấy, hay thấy như một thứ trang trí tôn giáo cần thiết trong phòng làm việc của một Linh Mục. Tôi bước đến, chậm rãi cúi nhặt ảnh Thánh Giá lên. Chúa nằm úp mặt trên sàn thảm, một cánh tay gảy lìa thân. Chúa trông thảm hại hơn bình thường. Cánh tay gảy lìa còn tòong teng nhờ đinh đóng chặt. Im lặng nhìn Thánh Giá, cố ráp cánh tay gảy của tượng Chúa vào thân, đặt trở lại trên bàn làm việc. Tôi quay lại ghế ngồi, ánh mắt vẫn không rời Thánh Giá. Tủi nhục và thảm hại của Thánh Giá làm cái tủi nhục phủi tuyết bám giày bà đầm lắng xuống dần. Ý nghĩa về chức Linh Mục của Chúa Giêsu dâng cao, lấn chiếm tôi.
Ánh mắt vẫn không rời tượng Chúa Giêsu chết treo trên Thánh Giá. Ngài là Linh Mục Thượng Tế, đang giang tay tế lễ trên Thánh Giá. Chính Ngài lập Bí Tích Truyền Chức Thánh để thông ban cho tôi chức Linh Mục của Ngài. Không ai gọi Ngài là CHA cả, nhưng gọi là Chúa và là Thầy (x. Ga 13, 13). Vậy tiếng CHA dùng để gọi các Linh Mục, tiếng ĐỨC CHA dành để gọi các Giám Mục, tiếng ĐỨC THÁNH CHA dùng để gọi Giáo Hoàng La Mã đến từ đâu ? Không đến trực tiếp từ Chúa. Chính Chúa đã có lần dạy các Tông Đồ là ‘đừng tôn xưng ai dưới đất là Cha, vì chúng con chỉ một Cha duy nhất trên trời" (Mt 23, 9). Nói thế, Chúa không có ý chỉ thị rõ ràng rằng ‘đừng gọi các Linh Mục Công Giáo là Cha’ như người Tin Lành suy diễn nhằm chỉ trích Linh Mục Công Giáo. Chúa đã khiển trách môn đệ mình vì chuyện ‘tranh chức’ đòi làm lớn, ngồi chỗ nhất giống như người Biệt Phái và dạy họ rằng: "Ai muốn làm lớn phải làm đầy tớ anh em mình." (Mt 20, 24-27), cũng như dừng bao giờ tự tôn mình lên ngang hàng với Chúa, vì chúng ta chỉ có một Chúa, người Cha duy nhất trên Trời.
Tiếng gọi CHA dành cho Linh Mục, ĐỨC CHA dành cho Giám Mục hay ĐỨC THÁNH CHA, dành cho Giáo Hoàng được sử dụng trên toàn thế giới, đến từ truyền thống của Giáo Hội nhằm tỏ lòng kính trọng và ngưỡng mộ những người có Chức Thánh Linh Mục. Từ việc tin Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế, là Linh Mục Thượng Tế, Kitô hữu đem lòng mộ mến, kính trọng Linh Mục, Giám Mục và Giáo Hoàng. Họ được coi như những người thông phần với chức Linh Mục của Chúa Kitô, như những người hy sinh và hiến tế đời mình cho phần rỗi nhân loại.
Phaolô nói khá nhiều về chức Linh Mục thượng phẩm của Chúa Kitô (Thư Do Thái 4, 14 - 5, 1-10) cũng như về vai trò trung gian giữa Trời và Đất đã ảnh hưởng sâu đậm nơi những kẻ tin. Người tin Chúa Kitô được dạy để đồng hoá Linh Mục với Chúa Kitô. Linh Mục là hiện thân của Chúa Kitô, là một Chúa Kitô khác, là người CHA tinh thần, người CHA chăm sóc phần hồn cho các tín hữu, người tái sinh chúng ta qua bí tích rửa tội.
Cũng rất có thể nó đến từ cách xưng hô kính trọng dành cho những bô lão, những bậc đứng tuổi, đáng kính trong Giáo Hội sơ khai. Từ Presbyteroi, nguyên ngữ Hy Lạp có nghĩa là người đứng tuổi, bậc đáng kính, được dùng để chỉ Linh Mục ngay từ buổi đầu.
Bà Catherine thiếu lòng kính trọng thánh chức Linh Mục vì đã không gọi tôi, một Linh Mục là CHA. Tôi thấy mình thiếu lý chứng để kết án bà. Người Tây Phương đặt tên để gọi. Họ thích được gọi đích danh. Một Linh Mục biết nhiều tên của nhiều người và gọi đúng tên, bất luận già trẻ lớn bé, sẽ được Giáo Dân quý mến đặc biệt. Khi được gọi đúng tên, người Tây Phương cảm thấy mình thực sự được quan tâm.
Người Á Đông, đặc biệt Việt Nam mình, đặt tên để tránh gọi tên hay đặt tên để giấu tên. Gọi tên ‘cúng cơm’ một người lớn, chuyện bất kính, không thể chấp nhận được. Người mình thường xưng hô bằng ngôi thứ: Bác Ba, Cô Chín, Cậu Út thay cho tên. Trong những Xứ Đạo người Bắc, chủ tịch Hội Đồng Giáo Xứ được gọi là Ông Chánh hay Chánh Trương. Giáo lý viên dạy kinh bổn được gọi là Bà Quản hay Quản Giáo. Người xướng kinh trong Nhà Thờ được gọi là Ông Trùm. Người chăm sóc việc nhà thờ, nhà Cha được gọi là Ông Bõ. Việc tránh gọi tên đi đến kết quả: không còn ai biết tên thật của nhau. Cách nào đó đã thiếu quan tâm đến cá nhân, đến hữu thể mà chỉ chú trọng đến ngôi thứ, chức vụ hay địa vị là cái tùy thể, tháp gắn vào hữu thể.
Năm 1974, tôi biết rõ một thiếu tá quận trưởng mất chức vì dám gọi vị Giám Mục Công Giáo là "Ông Đạo". Ai cũng cho là đáng đời, vì làm tới quận trưởng mà không biết gọi Giám Mục là Đức Cha. Cũng là những kết án không hợp lý và bất lợi: Một quận trưởng không Công Giáo, làm sao biết được cách xưng hô kiểu Công Giáo ? Người ngoài Công Giáo và nếu chịu ảnh hưởng Khổng Giáo chút ít, khó có thể gọi một ai khác ngoài cha đẻ của họ ở nhà là cha. Vị quận trưởng bị cất chức nầy có nhận ra lỗi "ăn nói vô đạo" của mình không ? Không ! Ông ta đâu có lỗi để nhận ra. Nhưng trên thực tế, ông ta đã nhận một bất công.
Gánh chịu bất công dễ đưa lòng người tới oán hận. Phải thú nhận rằng trong quá khứ, chúng ta, do hoàn cảnh đưa đẩy, đã sống theo kiểu "làm cha thiên hạ" hay "lấy thịt đè người". Chúng ta đòi người khác cho cái mà họ không có và không buộc phải cho. Chúng ta nghĩ thế nào, dễ hay khó, tự nhiên hay bất thường khi nghe một cụ già bảy mươi tuổi, trong tiếp xúc xã giao thường ngày, gọi một Linh Mục trẻ mới ba mươi tuổi là cha và xưng là con?
Bà Catherine đã gần bảy mươi tuổi, sấp xỉ tuổi mẹ tôi ở quê nhà. Chưa một lần xác định bằng lời, nhưng xem chừng bà thay Mẹ tôi chăm sóc cho tôi trong mấy tháng qua: Bà nấu cơm cho tôi, giặt giũ cho tôi, bà pha chế những món ăn hoà hợp giữa khẩu vị Tây-Ta cho tôi vừa miệng. Bà hay dò hỏi xem Mẹ tôi làm gì cho tôi khi tôi đau ốm hay khi tôi buồn. Bà nhắc tôi đi ngủ sớm và dâng thánh lễ chậm rải, sốt sắng. Bà thương chỉ bảo cho tôi phát âm từng chữ tiếng Anh cho đúng giọng và chính xác. Bà cũng hay nhờ tôi khuân vác hay di chuyển những vật nặng trong nhà xứ giống như Mẹ tôi ở nhà vậy. Chuyện bà gọi tôi bằng tên cũng là chuyện tự nhiên như Mẹ gọi con. Có bà mẹ nào, trong sinh hoạt thường nhật, gọi con mình làm Linh Mục là cha bao giờ ? Chuyện bà nhờ tôi phủi tuyết bám giày sáng nay, trong trí bà, có thể không như chuyện Giáo Dân nhờ Linh Mục, nhưng là chuyện mẹ nhờ con. Thật đơn giản !
Hơn bao giờ hết, tôi thấy mình thật cận kề với Chúa Giêsu chịu đóng đinh đang đặt trước mặt tôi, trên bàn làm việc. Chúa Kitô, Linh Mục thượng phẩm, đang dang tay, hiến tế chính thân mình trên Thánh Giá. Tôi, một Linh Mục, một Chúa Kitô khác, tôi dang tay dâng lễ hàng ngày trên bàn thờ. Tay dang, nhưng không dâng hiến, không ban phát, không cho đi, nhưng đòi hỏi: đòi được kính trọng đặc biệt, đòi được gọi bằng CHA mới thoả lòng. Tôi làm Linh Mục, một Chúa Kitô khác, nhưng đôi khi tôi thật khác Đức Kitô: Chúa Kitô, đến để phục vụ, còn tôi, tôi sôi máu tức giận khi phải phục vụ.
Tôi đứng lên, tìm bà Catherine trò chuyện. Bà đang ở nhà bếp chuẩn bị cơm trưa. Tôi vui vẻ đến gần hỏi xem bà có cần tôi giúp chuyện chi không. Bà Catherine vui vẻ nhờ tôi chuẩn bị salad và cà chua. Tôi vừa làm giúp bà vừa hát nho nhỏ trong miệng. Bà Catherine đến gần, ngọt giọng bảo tôi: "Peter, you look so happy today !" Lại cũng Peter suông ! Nhưng tôi lại yêu nó. Tôi mỉm cười đắc ý trả lời: "Yes, Mom, I deeply realize that I am a priest forever !" Chữ "Linh Mục" tôi nhấn mạnh và kéo dài. Suốt năm tháng qua, từ ngày chịu chức, tôi đã làm CHA và buồn vì không được gọi là Cha. Hôm nay, tôi mới thực sự làm Linh Mục, làm người được chia sẻ chức Linh Mục với Chúa Kitô, Đấng đến dang tay tế chính thân mình cho phần rỗi của những người con.
Bà Catherine ơi ! Cám ơn bà thật nhiều ! Bà đã không kêu tôi bằng Cha, nhưng bằng tên và đã nhờ tôi phủi tuyết bám giày bà. Bà không thật sự thiếu lòng kính trọng tôi, hay coi thường chức Linh Mục trong tôi. Nhưng bà cho tôi cơ hội nếm và sống ý nghĩa chức Linh Mục. Linh Mục, kẻ dang tay để tế lễ, để dâng hiến, để cho đi, để ban phát và phục vụ như một Đức Kitô khác. Bà thật sự giúp tôi khước từ ước vọng làm CHA hay thích được gọi là CHA theo ý nghĩa muốn được nâng cấp, mang tính ích kỷ thu gom của mình. Linh Mục, người Cha tinh thần hay cha linh hồn, người sinh cho Chúa nhiều con cái qua bí tích Rửa Tội, nhưng nhiều khi được gọi CHA làm tôi dễ thấy mình cao cả và quên đi vai trò hy sinh, dang tay cứu độ mà Đức Kitô, Linh Mục Thượng phẩm đã chọn gọi tôi để thi hành.
Lm. TRẦN TUYÊN, Canada.
(gpphanthiet.com)
Thứ Bảy, 10 tháng 1, 2015
HIỆP THÔNG - ÔNG CỐ MATTHÊU MARIA VŨ VĂN HIỂN
HIỆP THÔNG
Kính thưa Quý Cha,Quý Tu sĩ và Quý Cộng đoàn,
Hội Đồng Mục Vụ Giáo xứ Thuận Phát vừa được tin :
Ông Cố
MATTHÊU MARIA VŨ VĂN HIỂN
sinh ngày 11.02.1942 tại Nam Định
là thân phụ Cha Phaolô Vũ Đỗ Anh Khoa
đặc trách Lớp Chủng Sinh Dự Bị
Tổng Giáo Phận Saigon.
Cha Phaolô thường xuyên đến giúp Mục Vụ
tại Giáo xứ Thuận Phát.
đã an nghỉ trong Chúa
vào lúc 08g00 Thứ Sáu ngày 09.01.2015
tại tư gia: số 1 đường Nguyễn Văn Tố,
phường Tân Thành, Quận Tân Phú,
Tp. Hồ Chí Minh
thuộc Giáo xứ Tân Phú, Giáo hạt Tân Sơn Nhì,
Tổng Giáo Phận Saigon.
Kính thưa Quý Cha,Quý Tu sĩ và Quý Cộng đoàn,
Hội Đồng Mục Vụ Giáo xứ Thuận Phát vừa được tin :
Ông Cố
MATTHÊU MARIA VŨ VĂN HIỂN
sinh ngày 11.02.1942 tại Nam Định
là thân phụ Cha Phaolô Vũ Đỗ Anh Khoa
đặc trách Lớp Chủng Sinh Dự Bị
Tổng Giáo Phận Saigon.
Cha Phaolô thường xuyên đến giúp Mục Vụ
tại Giáo xứ Thuận Phát.
đã an nghỉ trong Chúa
vào lúc 08g00 Thứ Sáu ngày 09.01.2015
tại tư gia: số 1 đường Nguyễn Văn Tố,
phường Tân Thành, Quận Tân Phú,
Tp. Hồ Chí Minh
thuộc Giáo xứ Tân Phú, Giáo hạt Tân Sơn Nhì,
Tổng Giáo Phận Saigon.
Hưởng thọ 73 tuổi.
- Nghi thức Tẩn liệm đã cử hành
lúc 19g00 Thứ Sáu ngày 09.01.2015.
- Thánh lễ cầu hồn tại tư gia sẽ được cử hành
lúc 16g00 Thứ Bảy ngày 10.01.2015.
- Thánh lễ An táng sẽ được cử hành
lúc 08g30 Thứ Hai ngày 12.01.2015
tại Nhà thờ Giáo xứ Tân Phú, số 90 Nguyễn Hậu,
Phường Tân Thành, Quận Tân Phú, Tp. Hồ Chí Minh
Sau đó di quan đi hỏa táng tại Bình Hưng Hòa, Quận Bình Tân, Tp. Hồ Chí Minh.
Kính xin Quý Cha, Quý Tu sĩ và Quý Cộng đoàn hiệp ý cầu nguyện cho Linh Hồn Ông Cố MATTHÊU MARIA sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa.
Kính xin Quý Cha, Quý Tu sĩ và Quý Cộng đoàn hiệp ý cầu nguyện cho Linh Hồn Ông Cố MATTHÊU MARIA sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa.
Kính Báo
Hội Đồng Mục Vụ
Giáo Xứ Thuận Phát
Thứ Sáu, 9 tháng 1, 2015
ĐỨC TỔNG GIÁM MỤC PHÊRÔ NGUYỄN VĂN NHƠN ĐƯỢC ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ VINH THĂNG HỒNG Y
Đức Tổng Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn được chọn làm Hồng Y
VATICAN (04.01.2015) – Trong buổi đọc kinh Truyền tin trưa nay Chúa nhật 04-01-2015, Đức Thánh Cha (ĐTC) Phanxicô đã công bố danh tính mười lăm Tổng giám mục và Giám mục sẽ được ngài nâng lên hàng Hồng y vào ngày 14 tháng 2 sắp tới, trong đó có Đức Tổng Giám mục (ĐTGM) Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Tổng giáo phận Hà Nội. Ngoài ra, Đức Thánh Cha cũng công bố rằng, năm vị Tổng giám mục và giám muc đã nghỉ hưu “có lòng bác ái mục vụ trổi vượt trong việc phục vụ Toà Thánh và Giáo hội” cũng sẽ được đặt làm Hồng y.
Sau đây là toàn văn công bố của Đức Thánh Cha, cùng với danh tính của các vị Tân Hồng y:
“Như đã thông báo, vào ngày 14 tháng Hai sắp tới, tôi sẽ vui mừng triệu tập Công nghị Hồng y, và sẽ đặt 15 Hồng y mới; các vị này thuộc 14 quốc gia của tất cả các châu lục, thể hiện sự liên kết bất khả phân ly giữa Giáo hội Rôma và các Giáo hội địa phương trên thế giới.
Chúa nhật 15 tháng Hai, tôi sẽ chủ tế Thánh lễ trọng thể với các Tân Hồng y, trước đó, ngày 12 và 13 tôi sẽ chủ toạ Công nghị Hồng y cùng với tất cả các Hồng y để suy tư về những định hướng và các đề nghị cải tổ Giáo triều Rôma.
Các vị Tân Hồng y là:
Đó là:
Đức Hồng Y tân cử Phêrô Nguyễn Văn Nhơn sinh ngày 1-4-1938 tại Đà Lạt,
Sau đây là toàn văn công bố của Đức Thánh Cha, cùng với danh tính của các vị Tân Hồng y:
“Như đã thông báo, vào ngày 14 tháng Hai sắp tới, tôi sẽ vui mừng triệu tập Công nghị Hồng y, và sẽ đặt 15 Hồng y mới; các vị này thuộc 14 quốc gia của tất cả các châu lục, thể hiện sự liên kết bất khả phân ly giữa Giáo hội Rôma và các Giáo hội địa phương trên thế giới.
Chúa nhật 15 tháng Hai, tôi sẽ chủ tế Thánh lễ trọng thể với các Tân Hồng y, trước đó, ngày 12 và 13 tôi sẽ chủ toạ Công nghị Hồng y cùng với tất cả các Hồng y để suy tư về những định hướng và các đề nghị cải tổ Giáo triều Rôma.
Các vị Tân Hồng y là:
- Đức Tổng giám mục Dominique Mamberti, Chủ tịch Tối cao Pháp viện Toà Thánh
- Đức Tổng giám mục Manuel José Macario do Nascimento Clemente, Thượng phụ Lisbon (Bồ Đào Nha)
- Đức Tổng giám mục Berhaneyesus Demerew Souraphiel, C.M., Tổng giáo phận Addis Abeba (Ethiopia)
- Đức Tổng giám mục John Dew Atcherley, Tổng giáo phận Wellington (New Zealand)
- Đức Tổng giám mục Edoardo Menichelli, Tổng giáo phận Ancona-Osimo (Italia)
- Đức Tổng giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Tổng giáo phận Hà Nội (Việt Nam)
- Đức Tổng giám mục Alberto Suarez Inda, Tổng giáo phận Morelia (Mexico)
- Đức Tổng giám mục Charles Maung Bo, S.D.B., Tổng giáo phận Yangon (Myanmar)
- Đức Tổng giám mục Francis Xavier Kriengsak Kovithavanij, Tổng giáo phận Bangkok (Thái Lan)
- Đức Tổng giám mục Francesco Montenegro, Tổng giáo phận Agrigento (Italia)
- Đức Tổng giám mục Fernando Daniel Sturla Berhouet, S.D.B., Tổng giáo phận Montevideo (Uruguay)
- Đức Tổng giám mục Ricardo Blázquez Pérez, Tổng giáo phận Vallodolid (Tây Ban Nha)
- Đức Giám mục José Luis Lacunza Maestrojuán, O.A.R., giáo phận David (Panama)
- Đức Giám mục Arlindo Gomes Furtado, giáo phận Santiago de Cabo Verde (quần đảo Cape Verde)
- Đức Giám mục Soane Patita Paini Mafi, giáo phận Tonga (đảo Tonga)
Đó là:
- Đức Tổng Giám mục José de Jesús Pimiento Rodriguez, nguyên Tổng Giám mục Manizales (Colombia)
- Đức Tổng Giám mục Luigi De Magistris, nguyên Chánh án Toà Ân giải Tối cao
- Đức Tổng Giám mục Joseph Karl-Rauber, nguyên Sứ thần Tòa Thánh
- Đức Tổng Giám mục Luis Héctor Villaba, nguyên Tổng Giám mục Tucumán (Argentina)
- Đức Giám mục Júlio Duarte Langa, nguyên Giám mục Xai-Xai (Mozambique).
Đức Hồng Y tân cử Phêrô Nguyễn Văn Nhơn sinh ngày 1-4-1938 tại Đà Lạt,
thụ phong linh mục ngày 21-12-1967,
được bổ nhiệm làm GM Phó Đà Lạt ngày 11-10-1991,
và trở thành GM chính tòa ngày 23-3-1994.
Ngày 22-4-2010 ngài được bổ làm TGM Phó Tổng giáo phận Hà Nội,
và ngày 13-5-2010 ngày thăng TGM chính tòa Hà Nội, kế nhiệm Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt.
Trong số 19 Hồng y tân cử, vị trẻ nhất là Soane Patita Paini Mafi, GM Tonga 54 tuổi. Giáo phận của ngài là một quần đảo trong Thái Bình Dương, rộng 103 ngàn cây số vuông, nhưng chỉ có 13.300 tín hữu Công Giáo với 14 giáo xứ, 29 linh mục giáo phận và 9 linh mục dòng, 40 nữ tu, 15 tu huynh và 9 chủng sinh.
Vị cao niên nhất trong số các tiến chức Hồng Y là José de Jesus Pimiento Rodríguez Manizales, 96 tuổi (1919) cai quản tổng giáo phận Manizales (Colombia) từ 1975 đến khi về hưu năm 1996.
Việc bổ nhiệm Hồng Y lần trước cũng như lần này cho thấy chủ trương của ĐTC Phanxicô giảm bớt số Hồng Y tại giáo triều Roma và không nhất thiết theo truyền thống bổ nhiệm Hồng Y cho các giáo phận lớn. Ngài cũng bổ nhiệm Hồng Y cho các nước chưa hề có Hồng Y, hoặc những giáo phận nhỏ bé.
(Theo VietVatican & WHĐ)
Trong số 19 Hồng y tân cử, vị trẻ nhất là Soane Patita Paini Mafi, GM Tonga 54 tuổi. Giáo phận của ngài là một quần đảo trong Thái Bình Dương, rộng 103 ngàn cây số vuông, nhưng chỉ có 13.300 tín hữu Công Giáo với 14 giáo xứ, 29 linh mục giáo phận và 9 linh mục dòng, 40 nữ tu, 15 tu huynh và 9 chủng sinh.
Vị cao niên nhất trong số các tiến chức Hồng Y là José de Jesus Pimiento Rodríguez Manizales, 96 tuổi (1919) cai quản tổng giáo phận Manizales (Colombia) từ 1975 đến khi về hưu năm 1996.
Việc bổ nhiệm Hồng Y lần trước cũng như lần này cho thấy chủ trương của ĐTC Phanxicô giảm bớt số Hồng Y tại giáo triều Roma và không nhất thiết theo truyền thống bổ nhiệm Hồng Y cho các giáo phận lớn. Ngài cũng bổ nhiệm Hồng Y cho các nước chưa hề có Hồng Y, hoặc những giáo phận nhỏ bé.
(Theo VietVatican & WHĐ)
(WGPSG)
Chủ Nhật, 4 tháng 1, 2015
AUDIO THÁNH LỄ CN CHÚA HIỂN LINH NĂM B 04-01-2015
Audio Thánh Lễ CN Chúa Hiển Linh năm B
05g30 Chúa Nhật ngày 04-01-2015
Cha khách dâng Lễ.
Cuối Lễ có Chầu Mình Thánh Chúa (CN đầu tháng).
Ca đoàn Cécilia hát Lễ.
05g30 Chúa Nhật ngày 04-01-2015
Cha khách dâng Lễ.
Cuối Lễ có Chầu Mình Thánh Chúa (CN đầu tháng).
Ca đoàn Cécilia hát Lễ.
VIDEO TRỰC TIẾP ĐỨC THÁNH CHA ĐỌC KINH TRUYỀN TIN VỚI KHÁCH HÀNH HƯƠNG TRƯA CHÚA NHẬT 04.01.2015
Bắt đầu lúc 12g00 giờ Vatican (18g00 giờ Việt Nam)
Chúa Nhật ngày 04.01.2015
Chúa Nhật ngày 04.01.2015
Thứ Bảy, 3 tháng 1, 2015
ĐÊM GIAO THỪA 2014 - 2015 TẠI TRUNG TÂM THÁNH MẪU TÀPAO
Đêm giao thừa tại Trung tâm Thánh Mẫu Tà Pao
Đến hẹn lại lên, đêm Giao thừa năm nay với trên 50 ngàn người từ muôn nơi hành hương về với Mẹ Tà Pao. Sau một năm học hỏi gia đình Thánh gia để Tân Phúc âm hóa đời sống gia đình. Nay lại nguyện cầu cùng Mẹ, xin Mẹ dạy cho chúng con biết mang những lời dạy của Chúa trong Tin mừng để Canh tân đời sống Giáo xứ và Cộng đoàn Thánh hiến.
Đặc biệt năm nay, cộng đoàn hành hương vui mừng chào đón Đức Tổng Giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc: Chủ tịch HĐGM Việt Nam, Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Sài Gòn chủ sự Đêm Canh thức và chủ tế Thánh lễ Mừng kính Mẹ Thiên Chúa cầu nguyện cho Hòa bình Tổ quốc và Thế giới; Hiệp sĩ Đại Thánh giá Lê Đức Thịnh.
Về phía chính quyền, có sự hiện diện của ông Phạm Dũng: Thứ trưởng bộ Nội Vụ, Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ; ông Dương Ngọc Tấn, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tôn giáo Chính phủ; ông Đỗ Hữu Bá, phó Trưởng ban Tôn giáo giáo tỉnh Bình Thuận.
Tượng Đức Mẹ Tà Pao được cung nghinh và rước trọng thể lên Lễ đài. Mở đầu buổi rước kiệu, Đức Tổng Giám mục xông hương trước bàn Kiệu.
Về phía chính quyền, có sự hiện diện của ông Phạm Dũng: Thứ trưởng bộ Nội Vụ, Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ; ông Dương Ngọc Tấn, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tôn giáo Chính phủ; ông Đỗ Hữu Bá, phó Trưởng ban Tôn giáo giáo tỉnh Bình Thuận.
Tượng Đức Mẹ Tà Pao được cung nghinh và rước trọng thể lên Lễ đài. Mở đầu buổi rước kiệu, Đức Tổng Giám mục xông hương trước bàn Kiệu.
Khai mạc đêm Canh thức, Cha Giuse Trần Văn Thuyết, Hạt trưởng Hạt Đức Tánh thay mặt Đức Giám Mục Giáo phận Phan Thiết phát biểu chào mừng Đức Tổng Giám mục Phaolô, quí linh mục, nữ tu và toàn thể cộng đoàn từ khắp nơi hành hương về bên Mẹ Tà Pao. Chào mừng Hiệp sĩ Đại Thánh giá Lê Đức Thịnh và quí vị đại diện lãnh đạo chính quyền trung ương và tỉnh Bình Thuận cũng đã đến tham dự. Sự hiện diện của lãnh đạo chính quyền Trung ương và tỉnh Bình Thuận sẽ cảm nhận được đức tin của cộng đoàn tín hữu, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các hoạt động của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, cách riêng cho sự phát triễn của Trung tâm Hành hương Đức Mẹ Tà Pao này.
Chương trình Canh thức năm nay gồm có 3 phần: Diễn nguyện, Cầu nguyện lần chuỗi Mân Côi và Lòng Chúa Thương xót, Thánh lễ Giao thừa mừng kính Mẹ Thiên Chúa cầu cho Hòa bình Tổ quốc và Thế giới. Toàn bộ Quảng trường Trung tâm Thánh mẫu Tà Pao hầu như không còn chỗ chen chân.
Mở đầu Canh thức với phần Diễn nguyện do các em thanh thiếu nhi dân tộc thuộc Giáo xứ Mađagui thể hiện. Tiếp theo là các tiết mục do quí xơ và thanh thiếu niên các giáo xứ thuộc các Giáo phận Sài Gòn, Xuân Lộc, Đà Lạt thể hiện.
Kết thúc diễn nguyện, ông Phạm Dũng, Thứ trưởng bộ Nội vụ thay mặt lãnh đao chính quyền Trung ương và tỉnh Bình Thuận phát biểu chào mừng Đức Tổng Giám mục, Hiệp sĩ Đại Thánh giá và cộng đoàn hành hương. Ông đánh giá cao sự về tinh thần trách nhiệm của HĐGM Việt Nam trong việc hướng dẫn và khích lệ tín hữu góp phần xây dựng đất nước, nhất là về các phương diện xã hội, kinh tế, văn hóa và bảo vệ an ninh tổ quốc, thực hiện lời dạy của Đức Thánh Cha Phanxicô: “Người Công Giáo Việt Nam phải là người yêu nước, đồng hành cùng dân tộc xay dựng đất nước ấm no hạnh phúc”.
Buổi cầu nguyện cùng Mẹ thật sốt sắng do cộng đoàn Lòng Chúa thương xót thuộc Tổng Giáo phận Sài Gòn phụ trách.
Thánh lễ trọng thể mừng kính Mẹ Thiên Chúa do Đức Tổng Giám mục Phaolô, Chủ tịch HĐGM Việt Nam, Tổng gIám mục Giáo phận Sài Gòn chủ tế.
Sau Thánh lễ, Hiệp sĩ Đại Thánh giá thay mặt cộng đoàn hành hương nói lời cảm ơn Đức Tổng Giám mục đã cùng cộng đoàn tham dự đêm canh thức và chủ tế Thánh lễ mừng kính Mẹ Thiên Chúa trong đêm Giáo thừa tại Trung tâm Hành hương Đức Mẹ Tà Pao này. Cảm ơn các quan chức chính quyền đã không quản ngại đêm khuya, cùng cộng đoàn tín hữu trải nghiệm đời sống đức tin.
Các thiếu nữ thay mặt cộng đoàn hành hương lên tặng hoa Đức Tổng Giám mục, quí Cha đồng tế, quan chức chính quyền và Hiệp sĩ Đại Thánh giá.
Đức Tổng Giám mục cũng đã trao Phép lành Tòa Thánh cho Cha Quản nhiệm Trung tâm hành hương và các ân nhân đã tích cực góp phần vào việc phát triễn Trung tâm hành hương Đức Mẹ.
Kết thúc Thánh lễ, Đức Tổng Giám mục ban Phép lành cho cộng đoàn, đoàn đồng tế hướng về ảnh tượng Đức Mẹ Tà Pao cùng tạ ơn Mẹ đã dìu dắt con cái Mẹ trên đường lữ thứ trần gian này.
(gpphanthiet.com)
Thứ Sáu, 2 tháng 1, 2015
R.I.P BÀ CỐ ANNA VŨ THỊ NÊN
XIN CẦU CHO LINH HỒN
ANNA
Trong niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh
Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ Thuận Phát
và gia đình xin kính báo :
Bà Cố
ANNA VŨ THỊ NÊN
Sinh ngày 24.8.1936 tại Thái Bình
là Thân Mẫu Cha Gioakim Lê Hậu Hán
Chánh xứ Giáo xứ Thuận Phát, Quận 7
Giáo hạt Xóm Chiếu, TGP.Saigon.
đã an nghỉ trong Chúa
lúc 00g02 Thứ Sáu, ngày 02.01.2015
(Nhằm ngày 12 tháng 11 năm Giáp Ngọ)
tại tư gia thuộc Giáo xứ Tân Lập, Quận 2,
tại tư gia thuộc Giáo xứ Tân Lập, Quận 2,
Giáo hạt Thủ Thiêm, TGP.Saigon.
Hưởng thọ 80 tuổi.
CHƯƠNG TRÌNH TANG LỄ
Thứ Sáu 02.01.2015
Thứ Hai 05.01.2015
- 15g00 : Nghi Thức Phát Tang - Tẩn Liệm - Nhập Quan.
- 15g30 : Thánh lễ Cầu Hồn cử hành tại tư gia.
Thứ Hai 05.01.2015
- 08g30 : Thánh Lễ An Táng cử hành tại nhà thờ Tân Lập, Quận 2, Giáo hạt Thủ Thiêm, TGP.Saigon.
Sau đó mai táng tại Đất thánh Giáo xứ Tân Lập, Quận 2,
Giáo hạt Thủ Thiêm, TGP.Saigon.
Thuận Phát, ngày 02 tháng 01 năm 2015
Kính báo
Hội Đồng Mục Vụ
Gx.THUẬN PHÁT
và Gia Đình
Hội Đồng Mục Vụ
Gx.THUẬN PHÁT
và Gia Đình
SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ NHÂN NGÀY THẾ GIỚI HOÀ BÌNH 2015
Sứ điệp của ĐTC Phanxicô nhân ngày Hòa Bình Thế Giới 2015
1. Khởi đầu năm mới này, khoảnh khắc chúng ta đón nhận ân sủng của Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại, tôi xin chân thành gửi lời chúc bình an đến mọi người nam nữ, cũng như cho mọi dân tộc và quốc gia trên thế giới, các nhà lãnh đạo quốc gia và chính phủ, và các chức sắc của tôn giáo, cùng với lời cầu xin để không còn những cuộc chiến tranh, xung đột và những nỗi đau đớn gây ra bởi con người, các dịch bệnh xưa cũng như nay và bởi những tàn phá do thiên tai. Tôi đặc biệt cầu xin để, khi đáp lại lời mời gọi cộng tác của chúng ta với Thiên Chúa và với mọi người thành tâm thiện chí để làm thăng tiến sự đồng tâm nhất trí, chúng ta biết kháng cự lại những cám dỗ xúi giục mình hành xử theo cách không xứng với tư cách làm người của chúng ta.
Trong sứ điệp hòa bình vào tháng giêng năm ngoái, tôi đã nói về “khao khát một cuộc sống tròn đầy… bao hàm ước mong mãnh liệt về một tình huynh đệ thúc đẩy chúng ta đến với những người khác, nơi đó chúng ta nhìn về nhau không phải như những kẻ thù hay đối thủ, nhưng như anh chị em được đón nhận và ôm ấp”.[1] Vì tự bản chất, con người là hữu thể có tương quan, được an bài là phải đi tìm sự tròn đầy qua các tương quan liên vị, được gợi hứng bởi sự công bằng và tình yêu, nên việc nhân phẩm, tự do và tính tự trị được thừa nhận và tôn trọng là rất nền rảng cho việc phát triển của mình. Đáng buồn thay, những tai họa của việc con người trục lợi nhau đã làm hủy hoại nặng nề đời sống hiệp thông và lời mời gọi thắt chặt các tương quan liên vị được đánh dấu bằng sự tôn trọng, công bằng và tình yêu. Hiện tượng ghê tởm này, vốn dẫn tới việc coi thường các quyền cơ bản của người khác và xóa bỏ quyền tự do và nhân phẩm của họ, mang rất nhiều hình thức mà giờ đây tôi xin mạn phép đề cập đến những điều này cách vắn tắt, để dưới ánh sang Lời Chúa, chúng ta có thể xem tất cả mọi người “không còn là những nô lệ, nhưng là anh chị em với nhau”.
Lắng nghe kế hoạch của Thiên Chúa dành cho nhân loại
2. Đề tài mà tôi chọn cho sứ điệp năm nay được rút ra từ thư của Thánh Phaolô gửi ông Philemôn, trong đó thánh Tông Đồ đã xin cộng sự viên của mình đón nhận Onesimus, trước kia là nô lệ của Philemon, bây giờ đã trở thành một Kitô hữu và vì thế, theo Phaolô, đáng để được xem là một người anh em. Vị Tông đồ dân ngoại viết rằng: “Nó đã xa anh một thời gian để anh có được lại nó vĩnh viễn; không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì được một người anh em rất thân mến” (Plm 15-16). Onesimus đã trở thành người anh em của Philemôn khi ông trở thành một Kitô hữu. Như thế, việc quay trở về với Đức Kitô, bắt đầu một cuộc sống là người môn đệ trong Đức Kitô, làm nên một sự tái sinh (x. 2Cr 5,17; 1Pt 1,3) vốn tái tạo lại tình huynh đệ như là mối dây nền tảng của đời sống gia đình và đời sống xã hội.
Trong Sách Sáng Thế (x St 1,27-28), chúng ta đọc thấy rằng Thiên Chúa đã dựng nên người nam và người nữ, và chúc phúc cho họ để họ có thể lớn lên và sinh sôi nảy nở: Ngài tạo nên người cha Adam và người mẹ Eve, hai người này – khi đáp lại lệnh truyền hãy sinh sôi nảy nở của Chúa – đã làm nên tình huynh đệ đầu tiên, tình huynh đệ giữa Cain và Aben. Cain và Aben là anh em, bởi vì chúng được sinh ra từ cùng một dạ, và như thế, chúng có cùng một nguồn gốc, bản chất và phẩm giá như cha mẹ mình, những người được tạo ra giống Thiên Chúa và theo hình ảnh Thiên Chúa.
Nhưng tình huynh đệ cũng được diễn tả trong sự phong phú và khác biệt giữa anh chị em, cho dù họ được nối kết qua việc cùng do mẹ sinh ra và có cùng bản chất cũng như nhân phẩm. Vì thế, xét như là những anh chị em, tất cả mọi người, tự bản chất, đều có mối tương quan với người khác, những người ấy tuy khác với mình nhưng lại cùng chia sẻ một nguồn gốc, bản chất và phẩm giá. Theo đó, tình huynh đệ làm nên mối dây liên kết các tương quan thiết yếu để xây dựng gia đình nhận loại do Thiên Chúa tạo ra.
Đáng buồn thay, ngay giữa những thụ tạo đầu tiên mà sách Sáng Thế kể lại và việc tái sinh trong Đức Kitô, nơi mà các tín hữu trở nên anh chị em của “con đầu lòng giữa nhiều anh em” (Rm 8,29), đã tồn tại thực tại tiêu cực của tội lỗi, thường phá vỡ tình huynh đệ giữa các thụ tạo và liên tục làm biến dạng nét đẹp và sự cao quý của bản chất là anh chị em của chúng ta trong chính gia đình nhân loại. Cain không những không nâng đỡ Abel mà còn giết Abel vì lòng ganh tỵ và khi làm thế, ông đã làm nên cuộc chiến huynh đệ tương tàn đầu tiên. “Việc Cain đã giết em mình là A-ben cho thấy một thảm kịch của sự khước từ triệt để ơn gọi làm anh em của Cain. Câu chuyện của họ (x. St 4,1-16) chỉ ra nhiệm vụ khó khăn mà mọi người nam và nữ được mời gọi, để sống như một, mỗi người phải quan tâm đến người khác.[2]
Cũng như trong câu chuyện của gia đình ông Noê và con cái ông (x. St 9,18-27), Cam không tôn trọng cha mình là Noê, khiến Noê quyền rủa đứa con hỗn láo này và chúc phúc cho những đứa khác, những người kính trọng ông, điều này tạo ra một sự không công bằng giữa những anh chị em cùng một mẹ sinh ra.
Trong trình thuật về nguồn gốc của gia đình nhân loại, tội làm cách ly với Thiên Chúa, với cha ông ngày xưa và với anh em, đã nói lên việc loại trừ sự hiệp thông với nhau và nó được biểu lộ trong một nền văn hóa chinh phục (x. St 9,25-27), với những hậu quả đan xen và kéo dài từ thế hệ này đến thế hệ kia: loại trừ người khác, đối xử tệ bạc giữa con người, bạo lực đến nhân phẩm và các quyền cơ bản và cơ chế hóa của sự bất công. Từ đây, ta thấy cần phải hoán cải liên lỉ trở về với Giao Ước, được thực hiện trọn vẹn bởi hiến tế của Đức Giêsu trên thập giá, với niềm tin rằng “nơi nào càng nhiều tội lỗi, nơi đó ân sủng càng chứa chan… nhờ Đức Giêsu Kitô” (Rm 5,20.21). Đức Kitô, Người Con yêu dấu, đã đến để mặc khải tính yêu của Chúa Cha dành cho nhân loại. Những ai nghe Tin Mừng và đáp lại lời mời gọi hoán cải thì trở thành “anh chị em và là mẹ” của Đức Giêsu (Mt 12,50), và vì thế được Thiên Chúa Cha nhận làm con (x. EP 1,5).
Nhưng người ta không trở thành một Kitô hữu, một người con của Cha và là anh chị em trong Đức Kitô, xét như là mệnh lệnh của Chúa, nếu không thực thi quyền tự do cá nhân, nghĩa là, nếu không được hoán cải trở về với Đức Kitô một cách tự do. Trở thành một người con của Chúa thì thiết yếu phải được nối kết với sự hoán cải: “Sám hối, và chịu phép rửa, mỗi người trong anh em, nhân danh Đức Giêsu Kitô để được tha thứ tội lỗi và anh em sẽ lãnh nhận ân sủng của Thánh Thần” (Cv 2,38). Tất cả những ai đáp lại lời rao giảng của Phêrô bằng đức tin và với cuộc sống của mình thì đi vào trong tình huynh đệ của cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên (x. 1Pr 2,17; Cv 1,15.16; 6,3; 15,23): Do Thái và Hy Lạp, nô lệ và tự do (x. 1Cr 12,13; Gl 3,28) trong đó sự khác biệt về nguồn gốc và tình trạng xã hội không làm giảm đi nhân phẩm của bất cứ ai hay không cho bất cứ người nào thuộc về Dân Chúa. Vì thế, cộng đoàn Kitô giáo là một nơi hiệp thông, nơi đó mọi người sống trong tình yêu như anh chị em (x. Rm 12,10; 1 Tx 4,9; Dt 13,1; 1Pr 1,22; 2Pr 1,7).
Tất cả những điều này cho thấy làm thế nào Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô, qua đó Thiên Chúa làm “mọi sự trở nên mới” (Kh 21,5)[3], có thể cứu vãn các tương quan giữa con người, bao gồm cả tương quan giữa nô lệ và ông chủ, bằng cách làm sáng tỏ những điều mà cả hai đều có chung: cùng được nhận làm con và mối dây tình huynh đệ với Đức Kitô. Chính Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ vì tôi tớ không biết việc chủ làm, nhưng thầy gọi anh em là bạn hữu vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15)
Nhiều bộ mặt nô lệ hôm qua và hôm nay
3. Từ thời xa xưa, các xã hội khác nhau đã biết đến hiện tượng người thống trị người. Đã từng có những giai đoạn trong lịch sử nhân loại, nơi đó cơ cấu nô lệ được chấp nhận các rộng rãi và được luật ghi nhận. Điều này quy định những ai được sinh ra tự do và những ai sinh ra là nô lệ, cũng như những điều kiện mà qua đó một người vốn sinh ra là tự do nhưng có thể bị mất đi quyền tự do của mình hay có lại nó. Nói cách khác, chính luật pháp cũng thừa nhận rằng một số người nào đó có thể hay phải bị xem là tài sản của người khác, có quyền tự do quyết định trên số phận người ấy; một nô lệ có thể bị mua bán, chuyển giao hay mua được, như thể họ là một món hàng thương mại.
Ngày nay, với sự phát triển tích cực của ý thức con người, nạn nô lệ, vốn được xem như là một tội ác chống lại nhân loại,[4] đã chính thức bị xóa bỏ trên tòa thế giới. Quyền của mỗi người không được bị xem là nô lệ hay phụ thuộc như nô lệ được thừa nhận trong luật quốc tế như là một điều khoản bất khả xâm phạm.
Tuy nhiên, bất chấp cộng đồng quốc tế đã ký kết rất nhiều hiệp ước nhắm tới việc chấm dứt nạn nô lệ dưới nhiều hình thức, và đã khởi động nhiều chiến dịch khác nhau để chống lại nạn này, hàng triệu người ngày nay – trẻ em, đàn ông và đàn bà đủ mọi lứa tuổi – vẫn bị trút bỏ quyền tự do và bị buộc phải sống trong những điều kiện giống như các nô lệ.
Tôi nghĩ đến nhiều lao động nam và nữ, cả những người trẻ tuổi, bị nô dịch hóa trong nhiều khu vực khác nhau, dù là chính thức hay không chính thức, từ việc công việc trong nhà cho đến việc nông nghiệp, từ các nhà máy công nghiệp đến hầm mỏ, tại nhiều nước những quy định về lao động không khớp với những quy định và chuẩn mực quốc tế tối thiểu, hay thậm chí là phi pháp khi trong hệ thống pháp luật của mình, không hề có những quy định nào bảo vệ quyền lợi của người lao động.
Tôi cũng nghĩ đến điều kiện sống của nhiều người tị nạn, mà, trong cuộc phiêu lưu đầy bi kịch, đã phải chịu đói khát, đã bị tước bỏ tự do, bị cướp mất của cải hay bị lạm dụng thể lý và tính dục. Trong số ấy, tôi nghĩ đến những ai, để đến được nơi cần đến sau hành trình mệt rã rời với đầy những sợ hãi và không an toàn, bị giam giữ trong những điều kiện hết sức tàn nhẫn. Tôi nghĩ đến những người, vì những lý do kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau, bị buộc phải sống chui rúc và những người, để được xem là hợp pháp, phải đồng ý sống và làm việc trong những điều kiện không xứng hợp, đặc biệt là khi luật quốc gia tạo ra hoặc cho phép một sự lệ thuộc về cấu trúc của các công nhân tị nạn đối với chủ lao động, như, ví dụ khi quy định rằng việc cư trú hợp pháp phải phụ thuộc vào hợp đồng lao động… Vâng, tôi nghĩ đến nạn “nô lệ lao động”.
Tôi cũng nghĩ đến những người bị buộc phải đi vào con đường mại dâm, nhiều người trong số họ còn rất nhỏ, nạn nô lệ và nô lệ tình dục; đến những phụ nữ bị buộc phải kết hôn, những người bị bán trong những vụ kết hôn được sắp xếp hay những phụ nữ khi chồng chết thì bị chuyển cho một người thân của chồng như tài sản thừa kế mà không cần biết cô ta có đồng ý hay không.
Tôi cũng không thể không nghĩ đến tất cả những ai, trẻ cũng như lớn, là đối tượng của nạn buôn bán cơ phận, bị bắt nhập ngũ, để xin ăn, để phục vụ cho những hoạt động phi pháp như sản xuất và buôn bán ma túy, hay để phục vụ cho những hình thức trá hình của nhận con mang tính quốc tế.
Cuối cùng, tôi nghĩ đến tất cả những ai bị bắt cóc và giam giữ bởi những nhóm khủng bố, bị nô dịch hóa cho những mục đích của họ như là những chiến binh hay, trên hết trong những trường hợp các thiếu nữ và phụ nữ, bị sử dụng như là những nô lệ tình dục. Nhiều người trong số này đã biến mất trong khi những người khác thì bị bán vài lần, bị tra tấn và bị hành hạ hay bị giết.
Một vài nguyên nhân sâu xa của nạn nô lệ
4. Ngày nay, cũng như trong quá khứ, gốc rễ của nạn nô lệ xuất phát từ quan niệm con người cho phép đối xử nhau như một đối tượng. Khi nào tội lỗi phá hỏng trái tim con người và làm ngăn cách chúng ta với Tạo Hóa cũng như với tha nhân, thì tha thân không còn được xem là những hữu thể có cùng phẩm giá, như là anh chị em cùng chia sẻ nhân tính, nhưng là những đối tượng. Được tạo ra giống Thiên Chúa và theo hình ảnh Thiên Chúa, nhưng bằng sự cưỡng bức, sự lừa dối, hay bằng những ép buộc về thể lý hay tâm lý, Con người đã bị tước đoạt sự tư do của mình, bị bán và bị giảm thiểu xuống thành hàng hóa của một số người; bị đối xử như là phương tiện chứ không phải như cùng đích.
Cùng với nguyên nhân mang tính hữu thể học này – việc loại trừ nhân tính của người khác –, cũng còn có những nguyên nhân khác giúp giải thích những hình thức nô lệ tân thời. Trong số những nguyên nhân này, tôi nghĩ trước hết đến sự nghèo khổ, việc chậm phát triển và sự loại trừ, đặc biệt là khi nó cùng tồn tại với việc thiếu đi nguồn đào tạo hay với một thực tại được đánh dấu bởi sự khan hiếm, nếu không muốn nói là không có, những cơ hội việc làm. Thông thường, các nạn nhân của nạn buôn người và nô dịch là những người tìm cách thoát khỏi hoàn cảnh quá nghèo, họ vội tin theo lời hứa hão sẽ có việc làm, và họ thường rơi vào tay những mạng lưới tội phạm tổ chức các chuyến buôn người. Những mạng lưới này rất tinh vi trong việc sử dụng những phương tiện truyền thông hiện đại để dụ dỗ những người trẻ và rất trẻ ở nhiều vùng miền trên thế giới.
Nạn hối lộ của những ai sẵn sàng bất cứ việc gì để làm giàu cũng là một nguyên nhân khác của nạn nô lệ. Thực ra, những người thực hiện việc nô dịch và buôn bán người thường phải mưu chuộc cả một hệ thống trung gian phức tạp, một số thành viên của lực lượng cầm quyền hay các viên chức hay các thể chế dân sự và quân đội. “Điều này xảy đến khi nằm ở vị trí trung tâm của hệ thống kinh tế là tiền bạc, chứ không phải là con người. Vâng, ở vị trí trung tâm của hệ thống kinh tế hay xã hội phải là con người, hình ảnh Thiên Chúa, được dựng nên để làm bá chủ vũ hoàn. Khi con người bị đồng tiền thay thế, các giá trị sẽ bị đảo lộn”.[5]
Những nguyên nhân khác của nạn nô lệ là những xung đột vũ trang, bạo lực, hoạt động tội phạm và khủng bố. Nhiều người đã bị bắt cóc để đem bán, bắt đi chiến đấu như binh lính, hay bị khai thác tình dục, trong khi những người khác thì buộc phải đi tị nạn, bỏ lại mọi thứ đàng sau tất cả những gì họ có: đất nước, nhà cửa, của cải và thậm chí là các thành viên trong gia đình mình. Họ buộc phải đi tìm kiếm một sự thay đổi cho những điều kiện khủng khiếp này dù phải đánh liều nhân phẩm cá nhân và sự sống còn của mình, rồi theo đó, họ liều mình đi vào trong vòng xấu xa này khiến họ trở thành con mồi của bao nỗi thống khổ, mục nát và những hậu quả tại hại khôn lường.
Cùng dấn thân để xóa bỏ nạn nô lệ
5. Thông thường, khi suy xét về hiện trạng buôn người, về việc buôn bán bất hợp pháp những người tị nạn và những hình thức nô lệ được công nhận hay không công nhận, người ta có một ấn tượng là chúng xảy đến là do sự thờ ơ chung của mọi người.
Thật đáng buồn, nếu điều này đúng, tôi xin mạn phép gợi nhắc lại rất nhiều nỗ lực thầm lặng mà các dòng tu, đặc biệt là các dòng tu nữ, trong nhiều năm qua đã làm để trợ giúp các nạn nhân. Những dòng tu này đã hoạt động trong những hoàn cảnh rất khó khăn, bị vây bủa bởi những vụ bạo lực, nhưng luôn cố gắng để phá bỏ những mắc xích vô hình trói buộc những nạn nhân với những kẻ buôn người và bóc lột người; những mắc xích đó được làm nên từ một chuỗi nhưng liên kết, mỗi mắc xích được tạo thành từ nhiều cơ chế tâm lý tinh vi, làm cho các nạn nhân phụ thuộc vào những người bóc lột, được thực thi bằng những lá thư tống tiền và những đe dọa dành cho họ và những người thân của họ, cũng như bằng những phương tiên vật chất như tước đoạt giấy tờ tùy thân của họ và bạo lực thể lý. Hoạt động của các dòng tu được thực thi chính yếu dưới ba lĩnh vực chính: cung cấp trợ giúp cho các nạn nhân, giúp phục hồi dưới khía cạnh tâm lý và giáo dục, giúp họ tái hội nhập vào xã hội nơi nơi họ đến hay xã hội gốc của họ.
Nhiệm vụ rộng lớn này, vốn đòi hỏi lòng dũng cảm, kiên nhẫn và bền bỉ, xứng đáng được đánh giá cao trong toàn thể Giáo Hội và xã hội. Tuy nhiên, tự bản thân nó không đủ để tự nhiên xóa bỏ vết thương của việc bóc lột người. Cũng cần một sự dấn thân ba chiều trên cấp độ thể chế trong việc ngăn chặn, bảo vệ nạn nhân và truy tố trước pháp luật những kẻ vi phạm. Tuy nhiên, vì các tổ chức tội phạm có mạng lưới toàn cầu để đạt được mục tiêu của chúng, nên những nỗ lực để xóa bỏ hiện tượng này cũng đòi phải có một nỗ lực chung mang tính toàn cầu của tất cả các bộ phận khác nhau của xã hội.
Các quốc gia phải đảm bảo rằng luật pháp của mình về những người tị nạn, việc lao động, việc nhận con nuôi, việc vận chuyển hàng hải và việc mua bán các sản phẩm do lao động nô lệ sản xuất ra phải thực sự tôn trọng nhân phẩm của con người. Cần có những điều luật công bằng, đặt trọng tâm vào con người, đảm bảo các quyền nền tảng và phục hồi lại những quyền đó khi chúng bị xâm phạm, phục hồi lại các quyền đó cho những ai là nạn nhân và đảm bảo sự an toàn cá nhân của họ và còn thêm những cơ chế hữu hiệu để kiểm soát việc áp dụng đúng đắn những điều này để không còn chỗ cho hối lộ hay bỏ sót tội phạm. Vai trò của phụ nữ trong xã hội cũng phải được thừa nhận, hoạt động trên bình diện văn hóa và truyền thông để đạt được những kết đáng hy vọng.
Các tổ chức liên chính phủ, trong khi giữ nguyên tắc phân chia quyền lực, cũng được mời gọi để phối hợp những sáng kiến để chiến đấu chống lại các mạng lưới xuyên quốc gia các tội phạm có tổ chức thực hiện các hoạt động buôn người và buôn bán người tị nạn trái phép. Việc hợp tác là rất cần thiết trên nhiều lĩnh vực, liên quan đến các thể chế quốc gia và quốc tế, cũng như các cơ quan của xã hội dân sự và thế giới tài chính.
Các cơ sở thương mại[6] có nhiệm vụ đảm bảo những điều kiện làm việc có nhân phẩm và đồng lương tương xứng với người lao động, đồng thời cũng phải cảnh giác để những hình thức của nô dịch hóa hay buôn bán người không được tìm thấy chỗ trong chuỗi phân phối. Cùng với trách nhiệm xã hội của các cơ sở thương mại, cũng cần có trách nhiệm xã hội của những người tiêu dùng. Thực ra, mỗi người phải có ý thức rằng “việc mua bán luôn là một hành vi luân lý, chứ không chỉ mang tính kinh tế”.[7]
Các tổ chức trong xã hội dân sự, về phần mình, có nhiệm vụ khơi dậy và thúc đẩy lương tâm trên những bước cần thiết để đấu tranh và nhổ tận gốc rễ nền văn hóa nô dịch.
Trong những năm gần đây, Tòa Thánh, khi cảm thấu được tiếng kêu gào đau khổ của các nạn nhân của nạn buôn người và tiếng nói của các dòng tu trợ giúp họ trên con đường hướng đến tự do, đã nhiều lần đề bạt những thỉnh nguyện lên cộng đồng quốc tế để các tổ chức khác nhau được thống nhất những nỗ lực và cộng tác nhằm loại trừ vết thương này.[8] Những cuộc gặp gỡ được được tổ chức để lôi kéo sự chú ý của mọi người đến hiện tượng buôn bán người và tạo điều kiện hợp tác giữa các cơ quan khác nhau, trong đó có các chuyên gia của giới học thuật và tổ chức quốc tế, lực lượng cảnh sát từ các nước gốc, nước chuyển giao và nước đến để người tị nạn và các đại diện của các nhóm trong Giáo Hội làm việc với các nạn nhân. Tôi hy vọng rằng những nỗ lực này sẽ tiếp tục mở rộng hơn trong những năm tới đây.
Toàn cầu hóa tình huynh đệ, chứ không phải nô lệ hay sự thờ ơ
6. Trong việc “loan báo chân lý tình yêu của Đức Kitô trong xã hội”[9], Giáo Hội luôn dấn thân không ngừng trong các hoạt động bác ái xuất phát từ chân lý về con người. Giáo Hội có nhiệm vụ phải phơi bày ra mọi con đường dẫn đến việc hoán cải, cho phép chúng ta thay đổi cái nhìn về những người thân cận của mình, để nhận ra nơi những người khác ấy, dù là ai, người anh chị em trong một gia đình nhân loại, và để thừa nhận phẩm giá bẩm sinh của họ trong chân lý và tự do, như câu chuyện của Josephine Bakhita soi sáng cho chúng ta. Đây là vị thánh xuất thân từ vùng Darfur của Sudan, người đã bị bắt cóc bởi những người buôn bán nô lệ và bị bán cho những ông chủ tàn ác khi thánh nhân chỉ mới 9 tuổi, và sau đó, từ chính những kinh nghiệm đau thương này, thánh nhân đã trở nên một “ái nữ tự do của Thiên Chúa” nhờ đức tin sống trong sự hiến dâng sốt sắng và trong sự phục vụ người khác, đặc biệt là những người thấp bé và bất lực nhất. Vị thánh này, người đã sống giữa thế kỷ 19 và 20, ngày nay vẫn có thể trở thành một mẫu gương điển hình cho niềm hy vọng[10] cho nhiều nạn nhân của nạn nô lệ; ngài có thể nâng đỡ cho những nỗ lực của những ai dấn thân trong cuộc đấu tranh chống lại “vết thương trên thân mình của nhân loại đương thời, một vết thương trên thân xác của Đức Kitô”.[11]
Dưới viễn tượng này, tôi muốn mời gọi mỗi người, theo vai trò và trách nhiệm riêng của mình, hãy thực thi hành vi huynh đệ đối với những ai đang bị giam giữ trong tình trạng nô dịch. Chúng ta hãy tự hỏi mình, xét như là những cá nhân và cộng đoàn, liệu chúng ta có cảm thấy bị tra vấn không khi, trong cuộc sống hàng này, chúng ta gặp gỡ hay đối mặt với những người đã là nạn nhân của nạn buôn người, hay khi chúng ta phải lựa chọn không biết có nên mua những sản phẩm mà có thể đã được làm ra từ việc bóc lột những người khác. Một vài người trong chúng ta, do thờ ơ, hay vì chúng ta quá bận tâm đến những nhu cầu thường ngày, hay vì những lý do kinh tế, đã khép mắt lại trước điều này. Tuy nhiên, những người khác lại quyết định làm điều gì đó tích cực, họ tham gia vào các tổ chức xã hội dân sự hay thực hành những cử chỉ nhỏ hàng ngày – nhưng lại có giá trị cao! – như nói một lời nói, một lời chúc sức khỏe, một lời chào hay một nụ cười. Những điều này chẳng làm chúng ta mất mát gì cả nhưng chúng có thể trao ban niềm hy vọng, mở những cánh cửa, thay đổi cuộc sống của người khác, những người phải sống cách lén lút và cũng có thể thay đổi cuộc sống của chính chúng ta đối với thực tại này.
Chúng ta phải nhận ra rằng chúng ta đang đối mặt với một hiện tượng toàn cầu vượt quá khả năng của bất cứ một cộng đồng hay quốc gia nào. Để có thể loại trừ nó, chúng ta cần một sự huy động ở một mức độ ngang tầm với chính hiện tượng đó. Vì thế, tôi khẩn thiết nài xin tất cả anh chị em thiện chí, và tất cả những ai dù xa hay gần, bao gồm những cấp độ cao nhất của các thể chế dân sự, những ai chứng kiến nỗi đau của nạn nô lệ tân thời, đừng thỏa hiệp với sự dữ này, đừng quay mặt đi trước những nỗi đau của anh chị em mình, của đồng loại mình, những người đã bị tước đoạt tự do và nhân phẩm, nhưng hãy có dũng lực để đụng đến thân thể đau đớn của Đức Kitô,[12] được biểu lộ nơi khuôn mặt của vô số những con người mà chính Ngài gọi là “những người anh em bé mọn của Ta” (Mt 25,40.45)
Chúng ta biết rằng Thiên Chúa sẽ hỏi mỗi người chúng ta rằng: “Ngươi đã làm gì em ngươi vậy?” (x. St 4,9-10). Toàn cầu hóa sự thờ ơ, vốn ngày nay đè nặng trên cuộc sống của nhiều anh chị em của chúng ta, đòi buộc chúng ta phải làm nên một sự toàn cầu hóa tình liên đới và tình huynh đệ, để có thể trao ban lại cho họ niềm hy vọng mới và giúp họ tiếp tục bước đi với sự dũng cảm qua những vấn đề của thời đại chúng ta và những chân trời mới mở ra và được Thiên Chúa đặt để vào tay chúng ta.
Từ Vatican, 8.12.2014
Chuyển dịch từ bản Ý ngữ: Pr. Lê Hoàng Nam, SJ
[1] Số 1.
[2] Sứ Điệp Nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới năm 2014, 2.
[3] X. Hiến Chế Vui Phúc Âm, 11
[4] X. Diễn Văn Dành Cho Các Đại Biểu Quốc Tế Của Hiệp Hội Luật Hình sự, 23.10.2014: L’Osservatore Romano, 24 Ottobre 2014, tr.4
[5] X. Diễn Văn Dành Cho Các Tham Dự Viên của Cuộc Gặp Gỡ Thế Giới của Phong Trào Popolari, 28.10.2014: L’Osservatore Romano, 29 Ottobre 2014, tr.7
[6] X. HỘI ĐỒNG CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH, Lời mời gọi của lãnh đạo các cơ sở thương mại. Một suy tư. Milano và Roma, 2013.
[7] Benedetto XVI, Lett. enc. Caritas in veritate, 66.
[8] X. Sứ điệp gửi Ông Guy Ryder, Tổng Giám Đốc của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế, 22.5. 2014: L’Osservatore Romano, 29.5.2014, tr. 7.
[9] Benedetto XVI, Lett. enc. Caritas in veritate, 5.
[10]“Qua việc biết được niềm hy vọng này, thánh nữ đã được “cứu chuộc”, không còn là nô lệ nữa, nhưng là ái nữ tự do của Thiên Chúa. Ngài hiểu được điều mà thánh Phaolô có ý nói đến khi nhắc nhớ các tín hữu Êphêsô rằng trước khi không có niềm hy vọng và không có Thiên Chúa giữa thế giới – không có niềm hy vọng vì không có Thiên Chúa” (BENEDETTO XVI, Lett.enc. Spe salvi, 3)
[11] Diễn văn dành cho các tham dự viên của Hội Nghị Quốc Tế Chống lại nạn buôn người: Giáo Hội và Thực Thi Luật cùng hợp tác, 10.4.2014: L’Osservatore Romano, 11.4.2014, p. 7; X. Hiến Chế Niềm Vui Phúc Âm, 270.
[12] X. Hiến Chế Niền Vui Phúc Âm, 24; 270
Trong sứ điệp hòa bình vào tháng giêng năm ngoái, tôi đã nói về “khao khát một cuộc sống tròn đầy… bao hàm ước mong mãnh liệt về một tình huynh đệ thúc đẩy chúng ta đến với những người khác, nơi đó chúng ta nhìn về nhau không phải như những kẻ thù hay đối thủ, nhưng như anh chị em được đón nhận và ôm ấp”.[1] Vì tự bản chất, con người là hữu thể có tương quan, được an bài là phải đi tìm sự tròn đầy qua các tương quan liên vị, được gợi hứng bởi sự công bằng và tình yêu, nên việc nhân phẩm, tự do và tính tự trị được thừa nhận và tôn trọng là rất nền rảng cho việc phát triển của mình. Đáng buồn thay, những tai họa của việc con người trục lợi nhau đã làm hủy hoại nặng nề đời sống hiệp thông và lời mời gọi thắt chặt các tương quan liên vị được đánh dấu bằng sự tôn trọng, công bằng và tình yêu. Hiện tượng ghê tởm này, vốn dẫn tới việc coi thường các quyền cơ bản của người khác và xóa bỏ quyền tự do và nhân phẩm của họ, mang rất nhiều hình thức mà giờ đây tôi xin mạn phép đề cập đến những điều này cách vắn tắt, để dưới ánh sang Lời Chúa, chúng ta có thể xem tất cả mọi người “không còn là những nô lệ, nhưng là anh chị em với nhau”.
Lắng nghe kế hoạch của Thiên Chúa dành cho nhân loại
2. Đề tài mà tôi chọn cho sứ điệp năm nay được rút ra từ thư của Thánh Phaolô gửi ông Philemôn, trong đó thánh Tông Đồ đã xin cộng sự viên của mình đón nhận Onesimus, trước kia là nô lệ của Philemon, bây giờ đã trở thành một Kitô hữu và vì thế, theo Phaolô, đáng để được xem là một người anh em. Vị Tông đồ dân ngoại viết rằng: “Nó đã xa anh một thời gian để anh có được lại nó vĩnh viễn; không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì được một người anh em rất thân mến” (Plm 15-16). Onesimus đã trở thành người anh em của Philemôn khi ông trở thành một Kitô hữu. Như thế, việc quay trở về với Đức Kitô, bắt đầu một cuộc sống là người môn đệ trong Đức Kitô, làm nên một sự tái sinh (x. 2Cr 5,17; 1Pt 1,3) vốn tái tạo lại tình huynh đệ như là mối dây nền tảng của đời sống gia đình và đời sống xã hội.
Trong Sách Sáng Thế (x St 1,27-28), chúng ta đọc thấy rằng Thiên Chúa đã dựng nên người nam và người nữ, và chúc phúc cho họ để họ có thể lớn lên và sinh sôi nảy nở: Ngài tạo nên người cha Adam và người mẹ Eve, hai người này – khi đáp lại lệnh truyền hãy sinh sôi nảy nở của Chúa – đã làm nên tình huynh đệ đầu tiên, tình huynh đệ giữa Cain và Aben. Cain và Aben là anh em, bởi vì chúng được sinh ra từ cùng một dạ, và như thế, chúng có cùng một nguồn gốc, bản chất và phẩm giá như cha mẹ mình, những người được tạo ra giống Thiên Chúa và theo hình ảnh Thiên Chúa.
Nhưng tình huynh đệ cũng được diễn tả trong sự phong phú và khác biệt giữa anh chị em, cho dù họ được nối kết qua việc cùng do mẹ sinh ra và có cùng bản chất cũng như nhân phẩm. Vì thế, xét như là những anh chị em, tất cả mọi người, tự bản chất, đều có mối tương quan với người khác, những người ấy tuy khác với mình nhưng lại cùng chia sẻ một nguồn gốc, bản chất và phẩm giá. Theo đó, tình huynh đệ làm nên mối dây liên kết các tương quan thiết yếu để xây dựng gia đình nhận loại do Thiên Chúa tạo ra.
Đáng buồn thay, ngay giữa những thụ tạo đầu tiên mà sách Sáng Thế kể lại và việc tái sinh trong Đức Kitô, nơi mà các tín hữu trở nên anh chị em của “con đầu lòng giữa nhiều anh em” (Rm 8,29), đã tồn tại thực tại tiêu cực của tội lỗi, thường phá vỡ tình huynh đệ giữa các thụ tạo và liên tục làm biến dạng nét đẹp và sự cao quý của bản chất là anh chị em của chúng ta trong chính gia đình nhân loại. Cain không những không nâng đỡ Abel mà còn giết Abel vì lòng ganh tỵ và khi làm thế, ông đã làm nên cuộc chiến huynh đệ tương tàn đầu tiên. “Việc Cain đã giết em mình là A-ben cho thấy một thảm kịch của sự khước từ triệt để ơn gọi làm anh em của Cain. Câu chuyện của họ (x. St 4,1-16) chỉ ra nhiệm vụ khó khăn mà mọi người nam và nữ được mời gọi, để sống như một, mỗi người phải quan tâm đến người khác.[2]
Cũng như trong câu chuyện của gia đình ông Noê và con cái ông (x. St 9,18-27), Cam không tôn trọng cha mình là Noê, khiến Noê quyền rủa đứa con hỗn láo này và chúc phúc cho những đứa khác, những người kính trọng ông, điều này tạo ra một sự không công bằng giữa những anh chị em cùng một mẹ sinh ra.
Trong trình thuật về nguồn gốc của gia đình nhân loại, tội làm cách ly với Thiên Chúa, với cha ông ngày xưa và với anh em, đã nói lên việc loại trừ sự hiệp thông với nhau và nó được biểu lộ trong một nền văn hóa chinh phục (x. St 9,25-27), với những hậu quả đan xen và kéo dài từ thế hệ này đến thế hệ kia: loại trừ người khác, đối xử tệ bạc giữa con người, bạo lực đến nhân phẩm và các quyền cơ bản và cơ chế hóa của sự bất công. Từ đây, ta thấy cần phải hoán cải liên lỉ trở về với Giao Ước, được thực hiện trọn vẹn bởi hiến tế của Đức Giêsu trên thập giá, với niềm tin rằng “nơi nào càng nhiều tội lỗi, nơi đó ân sủng càng chứa chan… nhờ Đức Giêsu Kitô” (Rm 5,20.21). Đức Kitô, Người Con yêu dấu, đã đến để mặc khải tính yêu của Chúa Cha dành cho nhân loại. Những ai nghe Tin Mừng và đáp lại lời mời gọi hoán cải thì trở thành “anh chị em và là mẹ” của Đức Giêsu (Mt 12,50), và vì thế được Thiên Chúa Cha nhận làm con (x. EP 1,5).
Nhưng người ta không trở thành một Kitô hữu, một người con của Cha và là anh chị em trong Đức Kitô, xét như là mệnh lệnh của Chúa, nếu không thực thi quyền tự do cá nhân, nghĩa là, nếu không được hoán cải trở về với Đức Kitô một cách tự do. Trở thành một người con của Chúa thì thiết yếu phải được nối kết với sự hoán cải: “Sám hối, và chịu phép rửa, mỗi người trong anh em, nhân danh Đức Giêsu Kitô để được tha thứ tội lỗi và anh em sẽ lãnh nhận ân sủng của Thánh Thần” (Cv 2,38). Tất cả những ai đáp lại lời rao giảng của Phêrô bằng đức tin và với cuộc sống của mình thì đi vào trong tình huynh đệ của cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên (x. 1Pr 2,17; Cv 1,15.16; 6,3; 15,23): Do Thái và Hy Lạp, nô lệ và tự do (x. 1Cr 12,13; Gl 3,28) trong đó sự khác biệt về nguồn gốc và tình trạng xã hội không làm giảm đi nhân phẩm của bất cứ ai hay không cho bất cứ người nào thuộc về Dân Chúa. Vì thế, cộng đoàn Kitô giáo là một nơi hiệp thông, nơi đó mọi người sống trong tình yêu như anh chị em (x. Rm 12,10; 1 Tx 4,9; Dt 13,1; 1Pr 1,22; 2Pr 1,7).
Tất cả những điều này cho thấy làm thế nào Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô, qua đó Thiên Chúa làm “mọi sự trở nên mới” (Kh 21,5)[3], có thể cứu vãn các tương quan giữa con người, bao gồm cả tương quan giữa nô lệ và ông chủ, bằng cách làm sáng tỏ những điều mà cả hai đều có chung: cùng được nhận làm con và mối dây tình huynh đệ với Đức Kitô. Chính Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ vì tôi tớ không biết việc chủ làm, nhưng thầy gọi anh em là bạn hữu vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15)
Nhiều bộ mặt nô lệ hôm qua và hôm nay
3. Từ thời xa xưa, các xã hội khác nhau đã biết đến hiện tượng người thống trị người. Đã từng có những giai đoạn trong lịch sử nhân loại, nơi đó cơ cấu nô lệ được chấp nhận các rộng rãi và được luật ghi nhận. Điều này quy định những ai được sinh ra tự do và những ai sinh ra là nô lệ, cũng như những điều kiện mà qua đó một người vốn sinh ra là tự do nhưng có thể bị mất đi quyền tự do của mình hay có lại nó. Nói cách khác, chính luật pháp cũng thừa nhận rằng một số người nào đó có thể hay phải bị xem là tài sản của người khác, có quyền tự do quyết định trên số phận người ấy; một nô lệ có thể bị mua bán, chuyển giao hay mua được, như thể họ là một món hàng thương mại.
Ngày nay, với sự phát triển tích cực của ý thức con người, nạn nô lệ, vốn được xem như là một tội ác chống lại nhân loại,[4] đã chính thức bị xóa bỏ trên tòa thế giới. Quyền của mỗi người không được bị xem là nô lệ hay phụ thuộc như nô lệ được thừa nhận trong luật quốc tế như là một điều khoản bất khả xâm phạm.
Tuy nhiên, bất chấp cộng đồng quốc tế đã ký kết rất nhiều hiệp ước nhắm tới việc chấm dứt nạn nô lệ dưới nhiều hình thức, và đã khởi động nhiều chiến dịch khác nhau để chống lại nạn này, hàng triệu người ngày nay – trẻ em, đàn ông và đàn bà đủ mọi lứa tuổi – vẫn bị trút bỏ quyền tự do và bị buộc phải sống trong những điều kiện giống như các nô lệ.
Tôi nghĩ đến nhiều lao động nam và nữ, cả những người trẻ tuổi, bị nô dịch hóa trong nhiều khu vực khác nhau, dù là chính thức hay không chính thức, từ việc công việc trong nhà cho đến việc nông nghiệp, từ các nhà máy công nghiệp đến hầm mỏ, tại nhiều nước những quy định về lao động không khớp với những quy định và chuẩn mực quốc tế tối thiểu, hay thậm chí là phi pháp khi trong hệ thống pháp luật của mình, không hề có những quy định nào bảo vệ quyền lợi của người lao động.
Tôi cũng nghĩ đến điều kiện sống của nhiều người tị nạn, mà, trong cuộc phiêu lưu đầy bi kịch, đã phải chịu đói khát, đã bị tước bỏ tự do, bị cướp mất của cải hay bị lạm dụng thể lý và tính dục. Trong số ấy, tôi nghĩ đến những ai, để đến được nơi cần đến sau hành trình mệt rã rời với đầy những sợ hãi và không an toàn, bị giam giữ trong những điều kiện hết sức tàn nhẫn. Tôi nghĩ đến những người, vì những lý do kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau, bị buộc phải sống chui rúc và những người, để được xem là hợp pháp, phải đồng ý sống và làm việc trong những điều kiện không xứng hợp, đặc biệt là khi luật quốc gia tạo ra hoặc cho phép một sự lệ thuộc về cấu trúc của các công nhân tị nạn đối với chủ lao động, như, ví dụ khi quy định rằng việc cư trú hợp pháp phải phụ thuộc vào hợp đồng lao động… Vâng, tôi nghĩ đến nạn “nô lệ lao động”.
Tôi cũng nghĩ đến những người bị buộc phải đi vào con đường mại dâm, nhiều người trong số họ còn rất nhỏ, nạn nô lệ và nô lệ tình dục; đến những phụ nữ bị buộc phải kết hôn, những người bị bán trong những vụ kết hôn được sắp xếp hay những phụ nữ khi chồng chết thì bị chuyển cho một người thân của chồng như tài sản thừa kế mà không cần biết cô ta có đồng ý hay không.
Tôi cũng không thể không nghĩ đến tất cả những ai, trẻ cũng như lớn, là đối tượng của nạn buôn bán cơ phận, bị bắt nhập ngũ, để xin ăn, để phục vụ cho những hoạt động phi pháp như sản xuất và buôn bán ma túy, hay để phục vụ cho những hình thức trá hình của nhận con mang tính quốc tế.
Cuối cùng, tôi nghĩ đến tất cả những ai bị bắt cóc và giam giữ bởi những nhóm khủng bố, bị nô dịch hóa cho những mục đích của họ như là những chiến binh hay, trên hết trong những trường hợp các thiếu nữ và phụ nữ, bị sử dụng như là những nô lệ tình dục. Nhiều người trong số này đã biến mất trong khi những người khác thì bị bán vài lần, bị tra tấn và bị hành hạ hay bị giết.
Một vài nguyên nhân sâu xa của nạn nô lệ
4. Ngày nay, cũng như trong quá khứ, gốc rễ của nạn nô lệ xuất phát từ quan niệm con người cho phép đối xử nhau như một đối tượng. Khi nào tội lỗi phá hỏng trái tim con người và làm ngăn cách chúng ta với Tạo Hóa cũng như với tha nhân, thì tha thân không còn được xem là những hữu thể có cùng phẩm giá, như là anh chị em cùng chia sẻ nhân tính, nhưng là những đối tượng. Được tạo ra giống Thiên Chúa và theo hình ảnh Thiên Chúa, nhưng bằng sự cưỡng bức, sự lừa dối, hay bằng những ép buộc về thể lý hay tâm lý, Con người đã bị tước đoạt sự tư do của mình, bị bán và bị giảm thiểu xuống thành hàng hóa của một số người; bị đối xử như là phương tiện chứ không phải như cùng đích.
Cùng với nguyên nhân mang tính hữu thể học này – việc loại trừ nhân tính của người khác –, cũng còn có những nguyên nhân khác giúp giải thích những hình thức nô lệ tân thời. Trong số những nguyên nhân này, tôi nghĩ trước hết đến sự nghèo khổ, việc chậm phát triển và sự loại trừ, đặc biệt là khi nó cùng tồn tại với việc thiếu đi nguồn đào tạo hay với một thực tại được đánh dấu bởi sự khan hiếm, nếu không muốn nói là không có, những cơ hội việc làm. Thông thường, các nạn nhân của nạn buôn người và nô dịch là những người tìm cách thoát khỏi hoàn cảnh quá nghèo, họ vội tin theo lời hứa hão sẽ có việc làm, và họ thường rơi vào tay những mạng lưới tội phạm tổ chức các chuyến buôn người. Những mạng lưới này rất tinh vi trong việc sử dụng những phương tiện truyền thông hiện đại để dụ dỗ những người trẻ và rất trẻ ở nhiều vùng miền trên thế giới.
Nạn hối lộ của những ai sẵn sàng bất cứ việc gì để làm giàu cũng là một nguyên nhân khác của nạn nô lệ. Thực ra, những người thực hiện việc nô dịch và buôn bán người thường phải mưu chuộc cả một hệ thống trung gian phức tạp, một số thành viên của lực lượng cầm quyền hay các viên chức hay các thể chế dân sự và quân đội. “Điều này xảy đến khi nằm ở vị trí trung tâm của hệ thống kinh tế là tiền bạc, chứ không phải là con người. Vâng, ở vị trí trung tâm của hệ thống kinh tế hay xã hội phải là con người, hình ảnh Thiên Chúa, được dựng nên để làm bá chủ vũ hoàn. Khi con người bị đồng tiền thay thế, các giá trị sẽ bị đảo lộn”.[5]
Những nguyên nhân khác của nạn nô lệ là những xung đột vũ trang, bạo lực, hoạt động tội phạm và khủng bố. Nhiều người đã bị bắt cóc để đem bán, bắt đi chiến đấu như binh lính, hay bị khai thác tình dục, trong khi những người khác thì buộc phải đi tị nạn, bỏ lại mọi thứ đàng sau tất cả những gì họ có: đất nước, nhà cửa, của cải và thậm chí là các thành viên trong gia đình mình. Họ buộc phải đi tìm kiếm một sự thay đổi cho những điều kiện khủng khiếp này dù phải đánh liều nhân phẩm cá nhân và sự sống còn của mình, rồi theo đó, họ liều mình đi vào trong vòng xấu xa này khiến họ trở thành con mồi của bao nỗi thống khổ, mục nát và những hậu quả tại hại khôn lường.
Cùng dấn thân để xóa bỏ nạn nô lệ
5. Thông thường, khi suy xét về hiện trạng buôn người, về việc buôn bán bất hợp pháp những người tị nạn và những hình thức nô lệ được công nhận hay không công nhận, người ta có một ấn tượng là chúng xảy đến là do sự thờ ơ chung của mọi người.
Thật đáng buồn, nếu điều này đúng, tôi xin mạn phép gợi nhắc lại rất nhiều nỗ lực thầm lặng mà các dòng tu, đặc biệt là các dòng tu nữ, trong nhiều năm qua đã làm để trợ giúp các nạn nhân. Những dòng tu này đã hoạt động trong những hoàn cảnh rất khó khăn, bị vây bủa bởi những vụ bạo lực, nhưng luôn cố gắng để phá bỏ những mắc xích vô hình trói buộc những nạn nhân với những kẻ buôn người và bóc lột người; những mắc xích đó được làm nên từ một chuỗi nhưng liên kết, mỗi mắc xích được tạo thành từ nhiều cơ chế tâm lý tinh vi, làm cho các nạn nhân phụ thuộc vào những người bóc lột, được thực thi bằng những lá thư tống tiền và những đe dọa dành cho họ và những người thân của họ, cũng như bằng những phương tiên vật chất như tước đoạt giấy tờ tùy thân của họ và bạo lực thể lý. Hoạt động của các dòng tu được thực thi chính yếu dưới ba lĩnh vực chính: cung cấp trợ giúp cho các nạn nhân, giúp phục hồi dưới khía cạnh tâm lý và giáo dục, giúp họ tái hội nhập vào xã hội nơi nơi họ đến hay xã hội gốc của họ.
Nhiệm vụ rộng lớn này, vốn đòi hỏi lòng dũng cảm, kiên nhẫn và bền bỉ, xứng đáng được đánh giá cao trong toàn thể Giáo Hội và xã hội. Tuy nhiên, tự bản thân nó không đủ để tự nhiên xóa bỏ vết thương của việc bóc lột người. Cũng cần một sự dấn thân ba chiều trên cấp độ thể chế trong việc ngăn chặn, bảo vệ nạn nhân và truy tố trước pháp luật những kẻ vi phạm. Tuy nhiên, vì các tổ chức tội phạm có mạng lưới toàn cầu để đạt được mục tiêu của chúng, nên những nỗ lực để xóa bỏ hiện tượng này cũng đòi phải có một nỗ lực chung mang tính toàn cầu của tất cả các bộ phận khác nhau của xã hội.
Các quốc gia phải đảm bảo rằng luật pháp của mình về những người tị nạn, việc lao động, việc nhận con nuôi, việc vận chuyển hàng hải và việc mua bán các sản phẩm do lao động nô lệ sản xuất ra phải thực sự tôn trọng nhân phẩm của con người. Cần có những điều luật công bằng, đặt trọng tâm vào con người, đảm bảo các quyền nền tảng và phục hồi lại những quyền đó khi chúng bị xâm phạm, phục hồi lại các quyền đó cho những ai là nạn nhân và đảm bảo sự an toàn cá nhân của họ và còn thêm những cơ chế hữu hiệu để kiểm soát việc áp dụng đúng đắn những điều này để không còn chỗ cho hối lộ hay bỏ sót tội phạm. Vai trò của phụ nữ trong xã hội cũng phải được thừa nhận, hoạt động trên bình diện văn hóa và truyền thông để đạt được những kết đáng hy vọng.
Các tổ chức liên chính phủ, trong khi giữ nguyên tắc phân chia quyền lực, cũng được mời gọi để phối hợp những sáng kiến để chiến đấu chống lại các mạng lưới xuyên quốc gia các tội phạm có tổ chức thực hiện các hoạt động buôn người và buôn bán người tị nạn trái phép. Việc hợp tác là rất cần thiết trên nhiều lĩnh vực, liên quan đến các thể chế quốc gia và quốc tế, cũng như các cơ quan của xã hội dân sự và thế giới tài chính.
Các cơ sở thương mại[6] có nhiệm vụ đảm bảo những điều kiện làm việc có nhân phẩm và đồng lương tương xứng với người lao động, đồng thời cũng phải cảnh giác để những hình thức của nô dịch hóa hay buôn bán người không được tìm thấy chỗ trong chuỗi phân phối. Cùng với trách nhiệm xã hội của các cơ sở thương mại, cũng cần có trách nhiệm xã hội của những người tiêu dùng. Thực ra, mỗi người phải có ý thức rằng “việc mua bán luôn là một hành vi luân lý, chứ không chỉ mang tính kinh tế”.[7]
Các tổ chức trong xã hội dân sự, về phần mình, có nhiệm vụ khơi dậy và thúc đẩy lương tâm trên những bước cần thiết để đấu tranh và nhổ tận gốc rễ nền văn hóa nô dịch.
Trong những năm gần đây, Tòa Thánh, khi cảm thấu được tiếng kêu gào đau khổ của các nạn nhân của nạn buôn người và tiếng nói của các dòng tu trợ giúp họ trên con đường hướng đến tự do, đã nhiều lần đề bạt những thỉnh nguyện lên cộng đồng quốc tế để các tổ chức khác nhau được thống nhất những nỗ lực và cộng tác nhằm loại trừ vết thương này.[8] Những cuộc gặp gỡ được được tổ chức để lôi kéo sự chú ý của mọi người đến hiện tượng buôn bán người và tạo điều kiện hợp tác giữa các cơ quan khác nhau, trong đó có các chuyên gia của giới học thuật và tổ chức quốc tế, lực lượng cảnh sát từ các nước gốc, nước chuyển giao và nước đến để người tị nạn và các đại diện của các nhóm trong Giáo Hội làm việc với các nạn nhân. Tôi hy vọng rằng những nỗ lực này sẽ tiếp tục mở rộng hơn trong những năm tới đây.
Toàn cầu hóa tình huynh đệ, chứ không phải nô lệ hay sự thờ ơ
6. Trong việc “loan báo chân lý tình yêu của Đức Kitô trong xã hội”[9], Giáo Hội luôn dấn thân không ngừng trong các hoạt động bác ái xuất phát từ chân lý về con người. Giáo Hội có nhiệm vụ phải phơi bày ra mọi con đường dẫn đến việc hoán cải, cho phép chúng ta thay đổi cái nhìn về những người thân cận của mình, để nhận ra nơi những người khác ấy, dù là ai, người anh chị em trong một gia đình nhân loại, và để thừa nhận phẩm giá bẩm sinh của họ trong chân lý và tự do, như câu chuyện của Josephine Bakhita soi sáng cho chúng ta. Đây là vị thánh xuất thân từ vùng Darfur của Sudan, người đã bị bắt cóc bởi những người buôn bán nô lệ và bị bán cho những ông chủ tàn ác khi thánh nhân chỉ mới 9 tuổi, và sau đó, từ chính những kinh nghiệm đau thương này, thánh nhân đã trở nên một “ái nữ tự do của Thiên Chúa” nhờ đức tin sống trong sự hiến dâng sốt sắng và trong sự phục vụ người khác, đặc biệt là những người thấp bé và bất lực nhất. Vị thánh này, người đã sống giữa thế kỷ 19 và 20, ngày nay vẫn có thể trở thành một mẫu gương điển hình cho niềm hy vọng[10] cho nhiều nạn nhân của nạn nô lệ; ngài có thể nâng đỡ cho những nỗ lực của những ai dấn thân trong cuộc đấu tranh chống lại “vết thương trên thân mình của nhân loại đương thời, một vết thương trên thân xác của Đức Kitô”.[11]
Dưới viễn tượng này, tôi muốn mời gọi mỗi người, theo vai trò và trách nhiệm riêng của mình, hãy thực thi hành vi huynh đệ đối với những ai đang bị giam giữ trong tình trạng nô dịch. Chúng ta hãy tự hỏi mình, xét như là những cá nhân và cộng đoàn, liệu chúng ta có cảm thấy bị tra vấn không khi, trong cuộc sống hàng này, chúng ta gặp gỡ hay đối mặt với những người đã là nạn nhân của nạn buôn người, hay khi chúng ta phải lựa chọn không biết có nên mua những sản phẩm mà có thể đã được làm ra từ việc bóc lột những người khác. Một vài người trong chúng ta, do thờ ơ, hay vì chúng ta quá bận tâm đến những nhu cầu thường ngày, hay vì những lý do kinh tế, đã khép mắt lại trước điều này. Tuy nhiên, những người khác lại quyết định làm điều gì đó tích cực, họ tham gia vào các tổ chức xã hội dân sự hay thực hành những cử chỉ nhỏ hàng ngày – nhưng lại có giá trị cao! – như nói một lời nói, một lời chúc sức khỏe, một lời chào hay một nụ cười. Những điều này chẳng làm chúng ta mất mát gì cả nhưng chúng có thể trao ban niềm hy vọng, mở những cánh cửa, thay đổi cuộc sống của người khác, những người phải sống cách lén lút và cũng có thể thay đổi cuộc sống của chính chúng ta đối với thực tại này.
Chúng ta phải nhận ra rằng chúng ta đang đối mặt với một hiện tượng toàn cầu vượt quá khả năng của bất cứ một cộng đồng hay quốc gia nào. Để có thể loại trừ nó, chúng ta cần một sự huy động ở một mức độ ngang tầm với chính hiện tượng đó. Vì thế, tôi khẩn thiết nài xin tất cả anh chị em thiện chí, và tất cả những ai dù xa hay gần, bao gồm những cấp độ cao nhất của các thể chế dân sự, những ai chứng kiến nỗi đau của nạn nô lệ tân thời, đừng thỏa hiệp với sự dữ này, đừng quay mặt đi trước những nỗi đau của anh chị em mình, của đồng loại mình, những người đã bị tước đoạt tự do và nhân phẩm, nhưng hãy có dũng lực để đụng đến thân thể đau đớn của Đức Kitô,[12] được biểu lộ nơi khuôn mặt của vô số những con người mà chính Ngài gọi là “những người anh em bé mọn của Ta” (Mt 25,40.45)
Chúng ta biết rằng Thiên Chúa sẽ hỏi mỗi người chúng ta rằng: “Ngươi đã làm gì em ngươi vậy?” (x. St 4,9-10). Toàn cầu hóa sự thờ ơ, vốn ngày nay đè nặng trên cuộc sống của nhiều anh chị em của chúng ta, đòi buộc chúng ta phải làm nên một sự toàn cầu hóa tình liên đới và tình huynh đệ, để có thể trao ban lại cho họ niềm hy vọng mới và giúp họ tiếp tục bước đi với sự dũng cảm qua những vấn đề của thời đại chúng ta và những chân trời mới mở ra và được Thiên Chúa đặt để vào tay chúng ta.
Từ Vatican, 8.12.2014
Chuyển dịch từ bản Ý ngữ: Pr. Lê Hoàng Nam, SJ
[1] Số 1.
[2] Sứ Điệp Nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới năm 2014, 2.
[3] X. Hiến Chế Vui Phúc Âm, 11
[4] X. Diễn Văn Dành Cho Các Đại Biểu Quốc Tế Của Hiệp Hội Luật Hình sự, 23.10.2014: L’Osservatore Romano, 24 Ottobre 2014, tr.4
[5] X. Diễn Văn Dành Cho Các Tham Dự Viên của Cuộc Gặp Gỡ Thế Giới của Phong Trào Popolari, 28.10.2014: L’Osservatore Romano, 29 Ottobre 2014, tr.7
[6] X. HỘI ĐỒNG CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH, Lời mời gọi của lãnh đạo các cơ sở thương mại. Một suy tư. Milano và Roma, 2013.
[7] Benedetto XVI, Lett. enc. Caritas in veritate, 66.
[8] X. Sứ điệp gửi Ông Guy Ryder, Tổng Giám Đốc của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế, 22.5. 2014: L’Osservatore Romano, 29.5.2014, tr. 7.
[9] Benedetto XVI, Lett. enc. Caritas in veritate, 5.
[10]“Qua việc biết được niềm hy vọng này, thánh nữ đã được “cứu chuộc”, không còn là nô lệ nữa, nhưng là ái nữ tự do của Thiên Chúa. Ngài hiểu được điều mà thánh Phaolô có ý nói đến khi nhắc nhớ các tín hữu Êphêsô rằng trước khi không có niềm hy vọng và không có Thiên Chúa giữa thế giới – không có niềm hy vọng vì không có Thiên Chúa” (BENEDETTO XVI, Lett.enc. Spe salvi, 3)
[11] Diễn văn dành cho các tham dự viên của Hội Nghị Quốc Tế Chống lại nạn buôn người: Giáo Hội và Thực Thi Luật cùng hợp tác, 10.4.2014: L’Osservatore Romano, 11.4.2014, p. 7; X. Hiến Chế Niềm Vui Phúc Âm, 270.
[12] X. Hiến Chế Niền Vui Phúc Âm, 24; 270
(WGPSG)
VIDEO ĐỨC THÁNH CHA CHỦ SỰ KINH CHIỀU TẠ ƠN CUỐI NĂM VÀ HÁT THÁNH THI TE DEUM
Bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô
trong kinh chiều tạ ơn cuối năm và hát Thánh Thi Te Deum
Vào lúc 5h chiều thứ Tư 31 tháng 12, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự buổi hát kinh chiều tạ ơn Te Deum bên trong Đền Thờ Thánh Phêrô cùng với tất cả các vị trong giáo triều Rôma trong đó có hơn 20 Hồng Y, đặc biệt là Đức Hồng Y Agostino Vallini, Giám Quản Rôma, các Giám Mục phụ tá, đông đảo các cha sở và tín hữu cùng với Ông Đô Trưởng và chính quyền miền Lazio và thành phố Roma. Hiện diện trong buổi lễ cũng có đông đảo các vị trong Ngoại Giao Đoàn cạnh Tòa Thánh.
Đây là một truyền thống đã được Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 giải thích như sau: “Giáo Hội gợi ý rằng chúng ta không nên kết thúc năm cũ mà không bày tỏ lời cám tạ Chúa, vì những ơn lành Ngài ban cho chúng ta”.
Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến
Lời Chúa giới thiệu với chúng ta ngày hôm nay một cách đặc biệt ý nghĩa của thời gian, trong ý thức rằng thời gian không phải là một thực tại xa lạ đối với Thiên Chúa, vì Ngài đã muốn mạc khải chính Ngài và muốn cứu chúng ta trong dòng lịch sử. Ý nghĩa của thời gian, của đời tạm này, là bầu khí hiển linh của Thiên Chúa, là sự thể hiện của Thiên Chúa và tình yêu vững bền của Ngài. Trong thực tế, thời gian là sứ giả của Thiên Chúa, như Thánh Phêrô thành Favre nói.
Hôm nay Phụng Vụ nhắc nhớ chúng ta những lời của Thánh Gioan Tông đồ: "Hỡi các con, giờ đã tận" (1 Ga 2:18), và lời của Thánh Phaolô về "sự viên mãn của thời gian" (Gl 4: 4). Vì vậy, Phụng Vụ hôm nay chỉ cho chúng ta thấy thời gian - có thể nói là - đã được Đức Kitô, Con Thiên Chúa và Con Mẹ Maria “đụng chạm” đến như thế nào, và nhận được từ Ngài một ý nghĩa mới và đáng ngạc nhiên: nó trở thành "thời gian cứu độ", nghĩa là thời điểm định đoạt của ơn cứu rỗi và ân sủng.
Và tất cả điều này khiến chúng ta suy tư về sự kết thúc của cuộc hành trình dương thế, sự kết thúc cuộc lữ hành của chúng ta. Đã có bắt đầu tất sẽ có hồi kết thúc, "một thời để được sinh ra và một thời để chết" (Quoleth 3: 2). Sự thật này rất đơn giản và cơ bản nhưng lại thường bị lờ đi và lãng quên, Mẹ Thánh Giáo Hội dạy chúng ta kết thúc một năm và mỗi ngày trong đời chúng ta với một sự tự vấn lương tâm, trong đó chúng ta nhìn lại những gì đã xảy ra: chúng ta cảm ơn Chúa vì mọi điều thiện hảo chúng ta đã nhận được hay đã có thể làm được, đồng thời chúng ta cũng suy nghĩ về những thất bại và tội lỗi của chúng ta - để biết ơn Chúa và cầu xin sự tha thứ của Ngài.
Đó cũng là những gì chúng ta làm hôm nay vào ngày cuối năm này. Chúng ta ca ngợi Chúa với Thánh Thi Te Deum và đồng thời chúng ta cầu xin Ngài tha thứ. Thái độ tạ ơn của chúng ta dẫn chúng ta đến tấm lòng khiêm cung, để nhận biết và đón nhận ân sủng của Thiên Chúa.
Trong Bài Đọc I trong các buổi Kinh Chiều này, Thánh Tông Đồ Phaolô tóm lược các động lực cơ bản hình thành nên lòng biết ơn của chúng ta với Thiên Chúa: Ngài đã làm cho chúng ta trở nên con cái của Ngài, nên những dưỡng tử của Ngài. Món quà vô giá này lấp đầy chúng ta với lòng biết ơn đầy kinh ngạc! Nhưng có người lại nói: "Sự thật là chúng ta là con người, chẳng nhẽ như thế vẫn chưa phải là con cái của Ngài sao?" Chắc chắn rồi, vì Thiên Chúa là Cha của mỗi người đến trong thế gian này. Nhưng đừng quên rằng chúng ta đã xa lạ với Ngài vì tội nguyên tổ đã tách chúng ta khỏi Cha chúng ta: mối quan hệ hiếu thuận của chúng ta với Thiên Chúa đã bị tổn thương. Vì thế, Thiên Chúa đã sai Con của Ngài đến cứu chúng ta bằng giá máu của Ngài. Và nếu có ơn cứu rỗi, thì đó là vì có sự nô lệ. Chúng ta là con cái Ngài, nhưng chúng ta đã thành nô lệ nghe theo tiếng gọi của ác thần. Không ai cứu chúng ta khỏi ách nô lệ cay nghiệt này, ngoại trừ Chúa Giêsu, Đấng đã mặc lấy xác loài người bởi Đức Trinh Nữ Maria và đã chết trên thập tự giá để giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ của tội lỗi và khôi phục quan hệ hiếu thuận với Thiên Chúa đã bị đánh mất.
Hôm nay Phụng Vụ nhắc chúng ta rằng “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.... và Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.” Vì thế Thánh Irênê khẳng định: “Đây là lý do Ngôi Lời đã làm người, và là Con Thiên Chúa, Con của nhân loại: đó là để con người, khi hiệp thông với Lời và từ đó đón nhận tình con cái thần thánh, có thể trở thành con của Thiên Chúa: (Adversus Haereses, 3, 19, 1 "PG 7, 939; x Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, 460 ).
Đồng thời, chính ân sủng được làm con cái Chúa mà chúng ta dâng lời cảm tạ cũng là một lý do để chúng ta tự vấn lương tâm mình, sửa đổi đời sống cá nhân và cộng đoàn của chúng ta, bằng cách tự hỏi lòng mình: chúng ta sống như thế nào? Chúng ta sống như con cái hay như nô lệ? Chúng ta có sống như những người đã được rửa tội trong Chúa Kitô, được xức dầu bởi Thánh Thần, được cứu thoát và tự do? Hay chúng ta sống trong băng hoại, chạy theo luận lý của thế gian này, làm những gì ác thần xúi chúng ta tin đó là lợi ích của chúng ta? Trong cuộc hành trình hiện sinh của chúng ta luôn luôn có một xu hướng chống lại sự tự do; chúng ta sợ tự do và, một cách nghịch lý, chúng ta vô tình thích ách nô lệ. Sự tự do làm chúng ta sợ hãi bởi vì nó đặt chúng ta trước thời gian và trước trách nhiệm của chúng ta là phải sống cho tốt. Ách nô lệ giản lược thời gian vào một "chốc lát" và chúng ta cảm thấy an toàn hơn, nghĩa là, nó làm cho chúng ta sống phút hiện tại tách biệt khỏi quá khứ và tương lai của chúng ta. Nói cách khác, ách nô lệ cản trở chúng ta sống phút hiện tại đầy đủ và thực sự, vì nó triệt tiêu quá khứ và đóng lại tương lai, khép kín với cõi đời đời. Ách nô lệ làm cho chúng ta tin rằng mình không thể ước mơ, bay bổng, hay hy vọng.
Mấy ngày trước một nghệ sĩ vĩ đại người Ý nói rằng Chúa đưa dân Israel ra khỏi Ai Cập thì dễ hơn là lấy Ai Cập khỏi trái tim của người Do Thái. "Vâng," họ đã được giải phóng "một cách hữu hình" khỏi chế độ nô lệ, nhưng cuộc hành trình sa mạc với những khó khăn đa dạng và đói khát đã khiến họ bắt đầu cảm thấy hoài cổ, nhớ nhung mảnh đất Ai Cập nơi họ đã "ăn những củ hành, củ tỏi ..." (x. Dân số 11: 5); nhưng họ quên họ đã ăn những thứ ấy ‘tại bàn dành cho nô lệ’. Nỗi nhớ nhung thời nô lệ cũng làm tổ trong trái tim chúng ta, vì nó làm chúng ta yên tâm hơn tự do, là điều xem ra rủi ro quá. Chúng ta hạnh phúc khi bị mê hoặc bởi những pháo hoa tưng bừng biết chừng nào, đẹp đấy nhưng thực ra chỉ kéo dài trong phút giây. Đó là điều đang ngự trị vào thời điểm này!
Phẩm chất sống, và hành động của chúng ta như các Kitô hữu, sự hiện diện của chúng ta trong thành phố này, sứ vụ của chúng ta cho lợi ích chung, sự dự phần của chúng ta trong các tổ chức công cộng và Giáo Hội cũng tùy thuộc vào sự tự vấn lương tâm này.
Vì lý do đó, và cũng trong tư cách Giám Mục Rôma, tôi muốn suy tư về đời sống của chúng ta tại Rôma, vốn dĩ là một hồng ân tuyệt vời, vì điều này có nghĩa là được sống tại kinh thành vĩnh cửu; đặc biệt đối với một Kitô hữu, nó có nghĩa là được trở thành một phần của Giáo Hội đã được thành lập trên chứng tá và máu tử đạo của hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô. Do đó, chúng ta cũng tạ ơn Chúa về điều này. Tuy nhiên, đó cũng là một trách nhiệm lớn lao. Chúa Giêsu đã nói: " Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn. " (Lu-ca 12:48). Vì vậy, chúng ta phải tự hỏi bản thân chúng ta: trong thành phố này, trong cộng đồng Giáo Hội này, chúng ta là những người tự do hay chúng ta là nô lệ, chúng ta có phải là muối và ánh sáng không? Có phải chúng ta là men không? Hay chúng ta rách nát, vô vị, thù địch, chán nản, ti tiện, và mệt mỏi?
Chắc chắn những vụ tham nhũng thê thảm được vạch trần gần đây, đòi hỏi một sự hoán cải nghiêm chỉnh và có ý thức của con tim cho một sự tái sinh về tinh thần và đạo đức, cũng như cho một cam kết mới để xây dựng một thành phố công chính và liên đới hơn, nơi người nghèo, người yếu thế và những người bị gạt ra ngoài lề phải là trung tâm của những mối quan tâm và hành động hàng ngày của chúng ta. Một thái độ tự do Kitô giáo cao cả và hàng ngày là cần thiết để có sức mạnh rao giảng trong thành phố của chúng ta rằng người nghèo phải được bảo vệ, chứ không phải là bảo vệ chúng ta khỏi những người nghèo; và rằng chúng ta phải phục vụ những người yếu đuối chứ không phải là lợi dụng họ!
Những giáo huấn của một phó tế đơn sơ của kinh thành Rôma này có thể giúp chúng ta. Khi Thánh Lôresensô được yêu cầu mang đến cho người ta xem kho tàng của Giáo Hội, ngài chỉ đơn giản là dẫn đến một số người nghèo. Khi những người nghèo và những yếu thế được chăm sóc, được hỗ trợ để thăng tiến trong xã hội, họ sẽ cho thấy họ là kho báu của Giáo Hội và là kho tàng của xã hội. Thay vào đó, khi xã hội bỏ qua những người nghèo, bách hại họ, biến họ thành tội phạm, và buộc họ gia nhập Mafia, xã hội đó đang nghèo đi đến mức cùng tận của bất hạnh, nó đánh mất tự do của mình, và ưa chuộng "những củ hành, củ tỏi" của thời nô lệ, của ách nô lệ gây ra bởi tính ích kỷ, của sự nhu nhược; và xã hội đó không còn là Kitô nữa.
Anh chị em thân mến,
Kết thúc một năm là tái khẳng định rằng có một "giờ khắc cuối cùng" và một "thời viên mãn". Khi kết thúc năm nay, khi tạ ơn và cầu xin ơn tha thứ, chúng ta nên xin ơn để tiến bước trong tự do hầu sửa chữa những thiệt hại và bảo vệ bản thân chúng ta khỏi nỗi nhớ nhung về thời nô lệ.
Nguyện xin Thánh Nữ Đồng Trinh, Đấng chính là trung tâm trong đền thờ Thiên Chúa, Đấng đã ban Đấng Cứu Thế cho thế giới, khi Ngôi Lời – Đấng đã có từ khởi đầu –hoá thân thành phàm nhân giữa chúng ta; xin Mẹ giúp chúng ta đón nhận Ngài với một trái tim rộng mở để thực sự được tự do và sống tự do như con cái Thiên Chúa.
Cuối kinh chiều, có nghi thức đặt Mình Thánh Chúa và hát kinh Te Deum tạ ơn Thiên Chúa. Thánh thi Te Deum, nghĩa là Lạy Thiên Chúa, chúng con xin ca ngợi hát mừng, tuyên xưng Ngài là Ðức Chúa, là một bài thánh thi Latinh cổ xưa bằng văn xuôi có nhịp điệu tương tự như nhịp điệu của bài Gloria in Excelsis Deo, tức là Kinh Vinh Danh: Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời.
Nội dung thánh thi Te Deum có thể dịch như sau:
Lạy Thiên Chúa, / Chúng con xin ca ngợi hát mừng, / Tuyên xưng Ngài là Ðức Chúa. / Chúa là Cha, Ðấng trường tồn vạn đại, / Hoàn vũ này kính cẩn suy tôn. / Trước nhan Chúa, các tổng thần phủ phục, / Mọi thiên thần và đạo binh thiên quốc, / Ðều cảm tạ và cung chúc tôn thờ, / Chẳng khi ngừng vang dậy tiếng tung hô: / Thánh! Thánh! Chí Thánh! / Chúa tể càn khôn là Ðấng Thánh! / Trời đất rạng ngời vinh quang Chúa uy linh. / Bậc Tông Ðồ đồng thanh ca ngợi Chúa, / Bao vị ngôn sứ tán tụng Ngài. / Ðoàn tử đạo quang huy hùng dũng, / Máu đào đổ ra minh chứng về Ngài, / Và trải rộng khắp nơi trần thế, / Hội Thánh Ngài hoan hỷ tuyên xưng: / Chúa là Cha lẫm liệt uy hùng, / Và Con Một Ngài chí tôn chí ái, / Cùng Thánh Thần, Ðấng an ủi yêu thương.
“Lạy Ðức Kitô, Con Chúa Trời hằng sống, / Ngài là Chúa hiển vinh / Ðã chẳng nề mặc lấy xác phàm / Nơi cung lòng Trinh Nữ / Hầu giải phóng nhân loại lầm than. / Ngài đã ra tay chiến thắng tử thần, / Mở cửa trời cho những ai tin tưởng. / Ngài hiển trị bên hữu Chúa Cha, / Ngày cuối cùng sẽ giáng lâm thẩm phán. / Cúi lạy Chúa, xin phù hộ bề tôi / Ngài cứu chuộc bằng bửu huyết tuôn tràn. / Xin được hợp đoàn cùng muôn thần thánh, / Phúc miên trường vui hưởng ánh vinh quang.”
Sau đó, Đức Thánh Cha đã ra quảng trường thánh Phêrô viếng thăm và cầu nguyện trước hang đá khổng lồ tại đây.
J.B. Đặng Minh An dịch
(VietCatholic News)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)