Thứ Ba, 14 tháng 7, 2020
Thứ Hai, 13 tháng 7, 2020
PHÁ THAI VÀ QUYỀN GIẢI VẠ TUYỆT THÔNG
1- Thế nào là tội phá thai[1]?
Sách Giáo Lý Chung nêu rõ: “Sự sống con người phải được tuyệt đối tôn trọng và bảo vệ từ lúc được thụ thai… Ngay từ thế kỷ thứ nhất, Hội Thánh đã xác định phá thai là một tội ác… Cộng tác vào việc phá thai là một lỗi nặng… Quyền được sống là quyền bất khả nhượng của mọi người vô tội… Ngay từ lúc thành thai, phôi thai phải được đối xử như một nhân vị, nên phải được hết sức bảo vệ toàn vẹn, chăm sóc và chữa trị như mọi con người khác”[2]. Như vậy, Hội Thánh xem phôi thai lúc mới hình thành đã là một con người.
Trước đây, quan niệm chung trong Hội Thánh định nghĩa tội phá thai là: trục một phôi thai còn sống ra khỏi lòng mẹ; do đó làm phôi thai này chết[3].
Một số nhà luân lý cho rằng: như vậy, việc cắt xẻ phôi thai (craniotomy, embrotomy) và các hình thức làm cho phôi thai chết ngay trong lòng mẹ, chỉ tính là tội giết người (homicide), chứ không phải tội phá thai (abortion).
Uỷ Ban Giáo Hoàng về Giải Thích Giáo Luật đã trả lời rõ ràng: phá thai là việc giết chết phôi thai, bằng bất cứ cách nào và vào bất kỳ thời điểm nào, trong giai đoạn người mẹ mang thai[4].
2- Khi nào người tín hữu mắc vạ tuyệt thông do tội phá thai?
Theo Giáo Luật, “người nào thi hành việc phá thai và nếu việc phá thai có hiệu quả, thì bị vạ tuyệt thông tiền kết” (Giáo Luật điều1398).
Bản Việt ngữ dùng thuật ngữ “thi hành” (việc phá thai) để dịch từ “procurat” (tạo ra, cung cấp…). Người mắc tội và vạ tuyệt thông là “người thi hành”, nghĩa là người chủ ý gây ra việc chết thai nhi. Giáo Luật cố tình dùng chữ “người thi hành”, chứ không dùng từ “người mẹ” hay “y sĩ”; để chỉ tất cả những người nào chủ ý cộng tác vào việc phá thai: người mẹ hay bất cứ người nào đồng ý, xúi giục, cộng tác hay giúp đỡ việc phá thai; y bác sĩ …[5]. Như vậy, bất cứ người tín hữu nào chủ ý tham dự hay cộng tác vào việc phá thai đều bị tội và vạ.
Người mẹ, vì vô ý khi vận động, nên bị sẩy thai, không phạm tội phá thai; người cha vô tâm, không để ý việc vợ mình lén đi phá thai, cũng không phạm tội.
Vạ tuyệt thông chỉ áp dụng khi việc phá thai “có hiệu quả”, nghĩa là thai nhi đã chết do việc làm của họ.
Vạ tuyệt thông này là vạ tiền kết, nghĩa là người nào đã phạm tội phá thai đương nhiên bị vạ từ lúc họ phạm tội, không cần Giáo Hội phải công bố hình phạt.
3- Trước đây, trong Giáo Hội hoàn vũ, linh mục nào có quyền giải vạ tuyệt thông tiền kết do tội phá thai?
Trong Giáo Hội toàn cầu, việc giải vạ này thuộc thẩm quyền của vị Thường Quyền Sở Tại: Đức giám mục giáo phận và vị tổng đại diện của ngài; hoặc các vị được giáo luật xem là tương đương với Đức giám mục giáo phận. Đức Giám Mục giáo phận thường chỉ định một số linh mục lo việc giải vạ trong những trường hợp tương tự. Thông thường, giáo phận chỉ định một vài linh mục tại nhà thờ chính toà. Các cha tuyên úy bệnh viện, nhà tù… cũng thường được trao năng quyền này.
Linh mục giải tội bình thường có thể tha vạ này, nhưng chỉ trong Toà Giải Tội (Toà Trong) mà thôi, nếu tội phạm này chưa bị Đức Giám Mục công bố (Giáo Luật điều1357). Đồng thời, vị linh mục giải tội này phải buộc hối nhân xin Đức Giám Mục tha vạ chính thức (Toà Ngoài) trong thời gian ngắn nhất.
Trong trường hợp nguy tử, bất kỳ linh mục nào cũng có thể tha tội và vạ này (Giáo Luật điều 976).
4- Trước đây, trong giáo phận Sài Gòn, linh mục nào có quyền giải vạ tuyệt thông tiền kết do tội phá thai?
Trước đây, giáo phận Sài Gòn và Giáo Hội toàn Việt Nam được dành điều kiện rộng rãi hơn vì là “xứ truyền giáo”. Bản Năng Quyền Thập Niên 1971-1980 ấn định: “Nếu Cha là linh mục đã nhập tịch hay nhập vụ giáo phận bất cứ với chức vụ gì, Cha được các năng quyền”… “Được giải các dược vạ đã dành cho quyền Toà Thánh cách đơn thường hay cách đặc biệt, trừ trường hợp bỏ đạo công khai; lại cũng được giải các dược vạ Luật Giáo Hội đã dành cho các vị Bản Quyền kể cả vạ làm truỵ thai mà có công hiệu, dù là chính người mẹ”[6].
Bản văn nói trên cũng ghi rõ là các năng quyền này có giá trị “cho đến hết ngày 31-12-1980”. Tuy nhiên, “Theo lời dặn trong Bản Năng Quyền Thập Niên số IV, thì các Năng Quyền ấy vẫn còn hiệu lực cho tới khi Đấng Bản Quyền nhận được những Năng Quyền mới. Bởi vậy hết ngày 31-12-1980 mà chưa có Bản Năng Quyền mới, thì các cha cứ dùng Bản Năng Quyền này” (tr. 09).
Như vậy, tại Tổng giáo phận TPHCM, các linh mục triều hoặc các linh mục dòng có làm nhiệm vụ cho giáo phận, đều có thể giải vạ tuyệt thông tiền kết do tội phá thai. Năng Quyền này có giá trị cho đến khi Bộ Truyền Giáo hay vị Tổng Giám Mục giáo phận công bố rút lại Năng Quyền.
Tại các giáo phận khác của Việt Nam, năng quyền này tuỳ thuộc quyết định của vị giám mục giáo phận.
5- Hiện nay, có thay đổi gì về quyền giải vạ tuyệt thông tiền kết do tội phá thai?
Ngày 20.11.2016, trong Tông thư kết thúc Năm Thánh, Đức giáo hoàng Phanxicô quyết định: “Tôi trao cho mọi linh mục năng quyền xá giải cho những ai phạm tội phá thai…”; dù Ngài vẫn xác định “phá thai là một tội trọng, vì chấm dứt một sinh mạng vô tội”[7].
Như vậy, từ nay, tất cả các linh mục có năng quyền Giải Tội, đều có thể xá giải vạ tuyệt thông tiền kết cho những người phạm tội phá thai.
––––––––––––––––––––––––––––
[1] Văn kiện chi tiết nhất của Hội Thánh về phá thai là Huấn thị Donum vitae của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin ngày 22.02.1987.
[2] GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO, số 2270-2275.
[3] D. PRUMMER, Manuale Theologie Moralis II, Roma 1958, p. 125-128.
[4] AAS 80, (1988), p. 1818-1819: “Utrun abortus, de quo in can. 1398, intellegatur tantum de eiectione fetus inmaturi, an etiam de eiusdem fetus occasione quocumque modo et quocumque temporea momento conceptionis procuretur? … A. Negative ad primam partem: affirmative ad secundam”.
[5] Xem thêm Giáo Luật điều 1329.
[6] Bản Năng Quyền Thập Niên 1971-1980, tr. 47;
Formula Facultatum Decennalium n. 24. Đây là Văn kiện Bộ Truyền Giáo tái xác nhận ngày 27.02.1971, để lặp lại các năng quyền theo Tông Thư Pastorale munus của Đức Phaolô VI, ngày 30.11.1963. Cả hai Văn kiện này được trích nguyên văn ở phần phụ lục Bản Năng Quyền Thập Niên 1971-1980.
[7] Tông thư Misericordia et misera, ngày 22.11.2016, số 12.
Sách Giáo Lý Chung nêu rõ: “Sự sống con người phải được tuyệt đối tôn trọng và bảo vệ từ lúc được thụ thai… Ngay từ thế kỷ thứ nhất, Hội Thánh đã xác định phá thai là một tội ác… Cộng tác vào việc phá thai là một lỗi nặng… Quyền được sống là quyền bất khả nhượng của mọi người vô tội… Ngay từ lúc thành thai, phôi thai phải được đối xử như một nhân vị, nên phải được hết sức bảo vệ toàn vẹn, chăm sóc và chữa trị như mọi con người khác”[2]. Như vậy, Hội Thánh xem phôi thai lúc mới hình thành đã là một con người.
Trước đây, quan niệm chung trong Hội Thánh định nghĩa tội phá thai là: trục một phôi thai còn sống ra khỏi lòng mẹ; do đó làm phôi thai này chết[3].
Một số nhà luân lý cho rằng: như vậy, việc cắt xẻ phôi thai (craniotomy, embrotomy) và các hình thức làm cho phôi thai chết ngay trong lòng mẹ, chỉ tính là tội giết người (homicide), chứ không phải tội phá thai (abortion).
Uỷ Ban Giáo Hoàng về Giải Thích Giáo Luật đã trả lời rõ ràng: phá thai là việc giết chết phôi thai, bằng bất cứ cách nào và vào bất kỳ thời điểm nào, trong giai đoạn người mẹ mang thai[4].
2- Khi nào người tín hữu mắc vạ tuyệt thông do tội phá thai?
Theo Giáo Luật, “người nào thi hành việc phá thai và nếu việc phá thai có hiệu quả, thì bị vạ tuyệt thông tiền kết” (Giáo Luật điều1398).
Bản Việt ngữ dùng thuật ngữ “thi hành” (việc phá thai) để dịch từ “procurat” (tạo ra, cung cấp…). Người mắc tội và vạ tuyệt thông là “người thi hành”, nghĩa là người chủ ý gây ra việc chết thai nhi. Giáo Luật cố tình dùng chữ “người thi hành”, chứ không dùng từ “người mẹ” hay “y sĩ”; để chỉ tất cả những người nào chủ ý cộng tác vào việc phá thai: người mẹ hay bất cứ người nào đồng ý, xúi giục, cộng tác hay giúp đỡ việc phá thai; y bác sĩ …[5]. Như vậy, bất cứ người tín hữu nào chủ ý tham dự hay cộng tác vào việc phá thai đều bị tội và vạ.
Người mẹ, vì vô ý khi vận động, nên bị sẩy thai, không phạm tội phá thai; người cha vô tâm, không để ý việc vợ mình lén đi phá thai, cũng không phạm tội.
Vạ tuyệt thông chỉ áp dụng khi việc phá thai “có hiệu quả”, nghĩa là thai nhi đã chết do việc làm của họ.
Vạ tuyệt thông này là vạ tiền kết, nghĩa là người nào đã phạm tội phá thai đương nhiên bị vạ từ lúc họ phạm tội, không cần Giáo Hội phải công bố hình phạt.
3- Trước đây, trong Giáo Hội hoàn vũ, linh mục nào có quyền giải vạ tuyệt thông tiền kết do tội phá thai?
Trong Giáo Hội toàn cầu, việc giải vạ này thuộc thẩm quyền của vị Thường Quyền Sở Tại: Đức giám mục giáo phận và vị tổng đại diện của ngài; hoặc các vị được giáo luật xem là tương đương với Đức giám mục giáo phận. Đức Giám Mục giáo phận thường chỉ định một số linh mục lo việc giải vạ trong những trường hợp tương tự. Thông thường, giáo phận chỉ định một vài linh mục tại nhà thờ chính toà. Các cha tuyên úy bệnh viện, nhà tù… cũng thường được trao năng quyền này.
Linh mục giải tội bình thường có thể tha vạ này, nhưng chỉ trong Toà Giải Tội (Toà Trong) mà thôi, nếu tội phạm này chưa bị Đức Giám Mục công bố (Giáo Luật điều1357). Đồng thời, vị linh mục giải tội này phải buộc hối nhân xin Đức Giám Mục tha vạ chính thức (Toà Ngoài) trong thời gian ngắn nhất.
Trong trường hợp nguy tử, bất kỳ linh mục nào cũng có thể tha tội và vạ này (Giáo Luật điều 976).
4- Trước đây, trong giáo phận Sài Gòn, linh mục nào có quyền giải vạ tuyệt thông tiền kết do tội phá thai?
Trước đây, giáo phận Sài Gòn và Giáo Hội toàn Việt Nam được dành điều kiện rộng rãi hơn vì là “xứ truyền giáo”. Bản Năng Quyền Thập Niên 1971-1980 ấn định: “Nếu Cha là linh mục đã nhập tịch hay nhập vụ giáo phận bất cứ với chức vụ gì, Cha được các năng quyền”… “Được giải các dược vạ đã dành cho quyền Toà Thánh cách đơn thường hay cách đặc biệt, trừ trường hợp bỏ đạo công khai; lại cũng được giải các dược vạ Luật Giáo Hội đã dành cho các vị Bản Quyền kể cả vạ làm truỵ thai mà có công hiệu, dù là chính người mẹ”[6].
Bản văn nói trên cũng ghi rõ là các năng quyền này có giá trị “cho đến hết ngày 31-12-1980”. Tuy nhiên, “Theo lời dặn trong Bản Năng Quyền Thập Niên số IV, thì các Năng Quyền ấy vẫn còn hiệu lực cho tới khi Đấng Bản Quyền nhận được những Năng Quyền mới. Bởi vậy hết ngày 31-12-1980 mà chưa có Bản Năng Quyền mới, thì các cha cứ dùng Bản Năng Quyền này” (tr. 09).
Như vậy, tại Tổng giáo phận TPHCM, các linh mục triều hoặc các linh mục dòng có làm nhiệm vụ cho giáo phận, đều có thể giải vạ tuyệt thông tiền kết do tội phá thai. Năng Quyền này có giá trị cho đến khi Bộ Truyền Giáo hay vị Tổng Giám Mục giáo phận công bố rút lại Năng Quyền.
Tại các giáo phận khác của Việt Nam, năng quyền này tuỳ thuộc quyết định của vị giám mục giáo phận.
5- Hiện nay, có thay đổi gì về quyền giải vạ tuyệt thông tiền kết do tội phá thai?
Ngày 20.11.2016, trong Tông thư kết thúc Năm Thánh, Đức giáo hoàng Phanxicô quyết định: “Tôi trao cho mọi linh mục năng quyền xá giải cho những ai phạm tội phá thai…”; dù Ngài vẫn xác định “phá thai là một tội trọng, vì chấm dứt một sinh mạng vô tội”[7].
Như vậy, từ nay, tất cả các linh mục có năng quyền Giải Tội, đều có thể xá giải vạ tuyệt thông tiền kết cho những người phạm tội phá thai.
Toà Tổng giám mục TPHCM ngày 03.12.2016
Lm Gioan Bùi Thái Sơn
Đại Diện Tư Pháp giáo phận
Lm Gioan Bùi Thái Sơn
Đại Diện Tư Pháp giáo phận
––––––––––––––––––––––––––––
[1] Văn kiện chi tiết nhất của Hội Thánh về phá thai là Huấn thị Donum vitae của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin ngày 22.02.1987.
[2] GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO, số 2270-2275.
[3] D. PRUMMER, Manuale Theologie Moralis II, Roma 1958, p. 125-128.
[4] AAS 80, (1988), p. 1818-1819: “Utrun abortus, de quo in can. 1398, intellegatur tantum de eiectione fetus inmaturi, an etiam de eiusdem fetus occasione quocumque modo et quocumque temporea momento conceptionis procuretur? … A. Negative ad primam partem: affirmative ad secundam”.
[5] Xem thêm Giáo Luật điều 1329.
[6] Bản Năng Quyền Thập Niên 1971-1980, tr. 47;
Formula Facultatum Decennalium n. 24. Đây là Văn kiện Bộ Truyền Giáo tái xác nhận ngày 27.02.1971, để lặp lại các năng quyền theo Tông Thư Pastorale munus của Đức Phaolô VI, ngày 30.11.1963. Cả hai Văn kiện này được trích nguyên văn ở phần phụ lục Bản Năng Quyền Thập Niên 1971-1980.
[7] Tông thư Misericordia et misera, ngày 22.11.2016, số 12.
(WGPSG)
Chủ Nhật, 12 tháng 7, 2020
NGƯƠI ĐANG Ở ĐÂU VẬY, AĐAM EVÀ ƠI?
WGPSG -- Kinh Thánh đã ghi lại câu đầu tiên Thiên Chúa nói trực tiếp với con người; và câu nói đầu tiên ấy lại là một câu hỏi: “Ngươi đang ở đâu vậy?”
Lúc đó, Ađam và Eva vừa phạm tội. Họ xấu hổ và sợ hãi, nên tìm cách trốn tránh Thiên Chúa. Và Thiên Chúa - Đấng thông biết mọi sự - đã lên tiếng gọi họ: “Ngươi đang ở đâu thế, Ađam Evà ơi?”
Nhà chú giải Kinh thánh Frederick Dale Bruner đã có những nhận xét tuyệt vời về câu hỏi rất đẹp này của Thiên Chúa:
“Câu hỏi thánh thiêng ấy đã vang vọng xuống trên tất cả các phần còn lại của Kinh Thánh. Nó cho thấy: Trong khi con người tìm cách tránh mặt Thiên Chúa thì Ngài lại không hề ruồng bỏ những kẻ đã phản bội Ngài. Thiên Chúa không ‘tấn công’ họ; Ngài đi tìm kiếm họ, và lên tiếng để gửi đến họ một câu hỏi dễ thương nhất trong tất cả các loại câu hỏi: Ngươi đang ở đâu? Ngươi đâu rồi vậy, Ađam Evà ơi?” (Chú giải Tin Mừng theo Thánh Gioan, 102).
Bản trình thuật của sách Sáng Thế cho thấy Ađam và Eva đã mất mát những gì khi họ tránh mặt Thiên Chúa:
“Nghe thấy tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con người và vợ mình trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt Thiên Chúa”(Sáng Thế 3,8). Những chữ Hipri trong câu trên đây, theo nghĩa đen, đã mô tả cách cụ thể như thế này: “Họ nghe tiếng Chúa đang đi”. Đây là kiểu nói rất thú vị, gợi ý cho thấy Adam và Eva đã từng được hưởng hạnh phúc hiệp thông ‘diện đối diện’ với Thiên Chúa trước khi sa ngã.
Điều này cũng cho thấy rằng, sau tội nguyên tổ, sự hiệp thông ‘diện đối diện’ tuyệt vời ấy không còn nữa. Ađam và Eva chỉ còn nghe được 'giọng nói’ của Chúa mà thôi. Nhưng một lần nữa, Lời của Chúa lại bộc lộ đầy sức mạnh. Lời Chúa thực hiện tất cả các nội dung chất chứa trong Lời. “Họ nghe thấy tiếng... bước đi”, nghĩa là tiếng nói của Chúa có sức vận hành.
Ở đây có vẻ như đã có một cái thoáng nhìn tinh tế về mầu nhiệm Nhập Thể, khi ‘lời của Chúa’ trở thành xác phàm, hay đúng hơn, khi ‘giọng nói của Chúa’ trở thành xác phàm. Ta có thể đối chiếu sách Sáng Thế với các sách Tin Mừng. Trong các sách Tin Mừng, những người đương thời với Đức Giêsu tại Palestine đã nghe được Lời Đức Giêsu là chính Ngôi Lời Thiên Chúa đang bước đi trên mặt đất trước mắt họ; còn trong sách Sáng Thế, Ađam và Evà cũng đã nghe thấy tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa đang bước đi trong vườn lúc gió thổi trong ngày.
Mối liên hệ giữa ‘trình thuật về sự sa ngã của sách Sáng Thế’ với ‘mầu nhiệm Nhập Thể’ không phải là chuyện tình cờ ngẫu nhiên. Sách Sáng Thế mô tả: Thiên Chúa đi vào vườn Êđen để tìm kiếm con người. Còn các sách Tin Mừng thì mô tả: Ngài đi tìm chúng ta ở mức độ mới mẻ đầy ấn tượng nơi mầu nhiệm Nhập Thể: gửi Con Một của Ngài đến thi hành sứ mạng giải cứu nhân loại.
Trở lại với sách Sáng Thế, sự kiện Thiên Chúa ‘đi tìm kiếm con người qua một câu hỏi’ cũng hướng đến niềm mong ước về mầu nhiệm Nhập thể. Nó diễn tả một vết thương lòng - như thể muốn nói: Bạn đã đi đâu vậy? Sao bạn lại bỏ Tôi? Đây đích thực là câu hỏi tha thiết của một ngôi vị Thiên Chúa rất gần gũi con người, chứ không phải là một Đấng Tạo Hóa vô ngã, tách biệt khỏi con người.
Lòng thương xót của Chúa đã thể hiện rõ nét trước khi Ngài xét xử Ađam Evà: Lòng thương xót bao trùm lên trên mọi lời xét xử. Quả thực là Adam và Eva cuối cùng đã bị trục xuất khỏi vườn Êđen, nhưng điều này chỉ xảy ra sau khi họ đã cố tình cô lập chính mình ra khỏi cõi thiên đường về mặt tinh thần cũng như thể xác. Sự xét xử của Chúa đơn giản chỉ là hiện thực những gì con người đã chọn. Điều này làm cho sự phán xét của Chúa trở nên đáng sợ theo một nghĩa nào đó. Nhưng nó cũng cho chúng ta lý do để hy vọng vào lòng thương xót của Ngài.
Câu hỏi của Chúa dành cho Ađam và Eva, cũng đang vang lên bên tai chúng ta hôm nay: Con ơi, con đang ở đâu vậy?
Chúng ta đang ở đâu? Đang sống trong Vương quốc của Thiên Chúa hay đang ở bên ngoài? Có lẽ chúng ta đang sống trong vương quốc của Ngài, nhưng đồng thời cũng đang tìm cách tránh mặt Ngài? Sao ta lại phải tránh mặt Thiên Chúa như thế?
Trong mầu nhiệm Nhập thể, Thiên Chúa đã có cách tiếp cận ngược lại với điều Ngài từng làm trong vườn Êđen: Ngài làm cho bản thân mình có thể nhìn thấy được và sờ chạm được cho tất cả mọi người. Đỉnh cao của điều này là thánh giá, khi Ngài bị lột hết áo xống và bị treo lên cao cho mọi người nhìn thấy. Hôm nay chính Chúa Kitô chịu đóng đinh đang lên tiếng gọi chúng ta cũng với câu hỏi rất ân tình: Bạn ơi, bạn đang ở đâu vậy?
Hỡi các đôi vợ chồng trẻ, các bạn có nghe được tiếng Chúa đang vang lên trong tổ ấm của các bạn: Con ơi, con đang ở đâu vậy? Đặc biệt là khi gia đình các bạn gặp khủng hoảng, hãy lắng nghe câu hỏi đầy tình thương xót này của Chúa để vội vã tìm đến sự hỗ trợ hữu hiệu từ trái tim của Ngài. Đừng tránh mặt Chúa như Ađam Evà khi xưa, bạn nhé!
Lúc đó, Ađam và Eva vừa phạm tội. Họ xấu hổ và sợ hãi, nên tìm cách trốn tránh Thiên Chúa. Và Thiên Chúa - Đấng thông biết mọi sự - đã lên tiếng gọi họ: “Ngươi đang ở đâu thế, Ađam Evà ơi?”
Nhà chú giải Kinh thánh Frederick Dale Bruner đã có những nhận xét tuyệt vời về câu hỏi rất đẹp này của Thiên Chúa:
“Câu hỏi thánh thiêng ấy đã vang vọng xuống trên tất cả các phần còn lại của Kinh Thánh. Nó cho thấy: Trong khi con người tìm cách tránh mặt Thiên Chúa thì Ngài lại không hề ruồng bỏ những kẻ đã phản bội Ngài. Thiên Chúa không ‘tấn công’ họ; Ngài đi tìm kiếm họ, và lên tiếng để gửi đến họ một câu hỏi dễ thương nhất trong tất cả các loại câu hỏi: Ngươi đang ở đâu? Ngươi đâu rồi vậy, Ađam Evà ơi?” (Chú giải Tin Mừng theo Thánh Gioan, 102).
Bản trình thuật của sách Sáng Thế cho thấy Ađam và Eva đã mất mát những gì khi họ tránh mặt Thiên Chúa:
“Nghe thấy tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con người và vợ mình trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt Thiên Chúa”(Sáng Thế 3,8). Những chữ Hipri trong câu trên đây, theo nghĩa đen, đã mô tả cách cụ thể như thế này: “Họ nghe tiếng Chúa đang đi”. Đây là kiểu nói rất thú vị, gợi ý cho thấy Adam và Eva đã từng được hưởng hạnh phúc hiệp thông ‘diện đối diện’ với Thiên Chúa trước khi sa ngã.
Điều này cũng cho thấy rằng, sau tội nguyên tổ, sự hiệp thông ‘diện đối diện’ tuyệt vời ấy không còn nữa. Ađam và Eva chỉ còn nghe được 'giọng nói’ của Chúa mà thôi. Nhưng một lần nữa, Lời của Chúa lại bộc lộ đầy sức mạnh. Lời Chúa thực hiện tất cả các nội dung chất chứa trong Lời. “Họ nghe thấy tiếng... bước đi”, nghĩa là tiếng nói của Chúa có sức vận hành.
Ở đây có vẻ như đã có một cái thoáng nhìn tinh tế về mầu nhiệm Nhập Thể, khi ‘lời của Chúa’ trở thành xác phàm, hay đúng hơn, khi ‘giọng nói của Chúa’ trở thành xác phàm. Ta có thể đối chiếu sách Sáng Thế với các sách Tin Mừng. Trong các sách Tin Mừng, những người đương thời với Đức Giêsu tại Palestine đã nghe được Lời Đức Giêsu là chính Ngôi Lời Thiên Chúa đang bước đi trên mặt đất trước mắt họ; còn trong sách Sáng Thế, Ađam và Evà cũng đã nghe thấy tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa đang bước đi trong vườn lúc gió thổi trong ngày.
Mối liên hệ giữa ‘trình thuật về sự sa ngã của sách Sáng Thế’ với ‘mầu nhiệm Nhập Thể’ không phải là chuyện tình cờ ngẫu nhiên. Sách Sáng Thế mô tả: Thiên Chúa đi vào vườn Êđen để tìm kiếm con người. Còn các sách Tin Mừng thì mô tả: Ngài đi tìm chúng ta ở mức độ mới mẻ đầy ấn tượng nơi mầu nhiệm Nhập Thể: gửi Con Một của Ngài đến thi hành sứ mạng giải cứu nhân loại.
Trở lại với sách Sáng Thế, sự kiện Thiên Chúa ‘đi tìm kiếm con người qua một câu hỏi’ cũng hướng đến niềm mong ước về mầu nhiệm Nhập thể. Nó diễn tả một vết thương lòng - như thể muốn nói: Bạn đã đi đâu vậy? Sao bạn lại bỏ Tôi? Đây đích thực là câu hỏi tha thiết của một ngôi vị Thiên Chúa rất gần gũi con người, chứ không phải là một Đấng Tạo Hóa vô ngã, tách biệt khỏi con người.
Lòng thương xót của Chúa đã thể hiện rõ nét trước khi Ngài xét xử Ađam Evà: Lòng thương xót bao trùm lên trên mọi lời xét xử. Quả thực là Adam và Eva cuối cùng đã bị trục xuất khỏi vườn Êđen, nhưng điều này chỉ xảy ra sau khi họ đã cố tình cô lập chính mình ra khỏi cõi thiên đường về mặt tinh thần cũng như thể xác. Sự xét xử của Chúa đơn giản chỉ là hiện thực những gì con người đã chọn. Điều này làm cho sự phán xét của Chúa trở nên đáng sợ theo một nghĩa nào đó. Nhưng nó cũng cho chúng ta lý do để hy vọng vào lòng thương xót của Ngài.
Câu hỏi của Chúa dành cho Ađam và Eva, cũng đang vang lên bên tai chúng ta hôm nay: Con ơi, con đang ở đâu vậy?
Chúng ta đang ở đâu? Đang sống trong Vương quốc của Thiên Chúa hay đang ở bên ngoài? Có lẽ chúng ta đang sống trong vương quốc của Ngài, nhưng đồng thời cũng đang tìm cách tránh mặt Ngài? Sao ta lại phải tránh mặt Thiên Chúa như thế?
Trong mầu nhiệm Nhập thể, Thiên Chúa đã có cách tiếp cận ngược lại với điều Ngài từng làm trong vườn Êđen: Ngài làm cho bản thân mình có thể nhìn thấy được và sờ chạm được cho tất cả mọi người. Đỉnh cao của điều này là thánh giá, khi Ngài bị lột hết áo xống và bị treo lên cao cho mọi người nhìn thấy. Hôm nay chính Chúa Kitô chịu đóng đinh đang lên tiếng gọi chúng ta cũng với câu hỏi rất ân tình: Bạn ơi, bạn đang ở đâu vậy?
Hỡi các đôi vợ chồng trẻ, các bạn có nghe được tiếng Chúa đang vang lên trong tổ ấm của các bạn: Con ơi, con đang ở đâu vậy? Đặc biệt là khi gia đình các bạn gặp khủng hoảng, hãy lắng nghe câu hỏi đầy tình thương xót này của Chúa để vội vã tìm đến sự hỗ trợ hữu hiệu từ trái tim của Ngài. Đừng tránh mặt Chúa như Ađam Evà khi xưa, bạn nhé!
Lm Giuse Vi Hữu
()
Thứ Bảy, 11 tháng 7, 2020
Thứ Sáu, 10 tháng 7, 2020
Thứ Năm, 9 tháng 7, 2020
Thứ Tư, 8 tháng 7, 2020
Thứ Ba, 7 tháng 7, 2020
Thứ Hai, 6 tháng 7, 2020
Chủ Nhật, 5 tháng 7, 2020
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)