Thứ Hai, 12 tháng 4, 2021

ĐÀI PHÁT THANH VATICAN THỨ HAI 12.4.2021


TỔNG GIÁO PHẬN SAIGON: ĐẠI LỄ LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT TẠI NHÀ THỜ ĐỨC BÀ SAIGON, 11.4.2021


ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ CỬ HÀNH THÁNH LỄ KÍNH LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT, 11.4.2021


NHÀ THỜ CHÍNH TÒA BÙI CHU DẤU ẤN GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN MỚI CỦA GIÁO PHẬN BÙI CHU

 
NHÀ THỜ CHÍNH TÒA BÙI CHU 
DẤU ẤN GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN MỚI 
CỦA GIÁO PHẬN BÙI CHU

Lm. Vinh Sơn Đỗ Huy Hoàng
Văn phòng Tòa Giám mục Giáo phận Bùi Chu

WHĐ (11.04.2021) - Để chuẩn bị kỷ niệm 60 năm ngày thành lập hàng Giáo phẩm Việt Nam (24/11/1960 - 24/11/2020), chúng con xin gửi tới báo Hiệp Thông bài viết này như một đóng góp nhỏ bé của chúng con, trong tinh thần hiệp thông cùng các Giáo phận và với tất cả mọi thành phần dân Chúa của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam, dâng lên Thiên Chúa lời chúc tụng, cảm tạ tri ân.

Bài viết này có 3 phần:
  1. Phần thứ nhất: Sơ qua lịch sử Giáo phận Bùi Chu
  2. Phần thứ hai: Lịch sử Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu
  3. Phần thứ ba: Việc tái tạo Nhà thờ Chính tòa như dấu ấn cho giai đoạn phát triển mới của Giáo phận Bùi Chu. 
1. Sơ qua lịch sử Giáo phận Bùi Chu
Trong số 27 Giáo phận của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam, Giáo phận Bùi Chu là Giáo phận có diện tích nhỏ nhất. Diện tích của Giáo phận Bùi Chu chỉ khoảng 1.350 km2, trên địa bàn của 6 huyện thuộc tỉnh Nam Định: Xuân Trường, Giao Thủy, Hải Hậu, Nghĩa Hưng, Trực Ninh và Nam Trực. Tuy nhiên, Giáo phận Bùi Chu lại là Giáo phận có số giáo dân khá cao so với số giáo dân của các Giáo phận khác tại Việt Nam. Theo con số thống kê năm 2019, số người Công giáo của Giáo phận Bùi Chu đứng thứ tư sau các Giáo phận Xuân Lộc, Tổng Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh và Giáo phận Ban Mê Thuột. Tỷ lệ người Công giáo tại Giáo phận Bùi Chu chiếm khoảng 32,9% so với tổng số dân cư trên địa bàn Giáo phận, là một trong những Giáo phận có tỷ lệ người Công Giáo cao nhất so với tỷ lệ người Công giáo tại Việt Nam, hiện mới chỉ khoảng 7% (theo Báo cáo thường niên năm 2019 của Văn phòng Thư ký Hội đồng Giám mục Việt Nam).

Chúng ta biết rằng, Tin Mừng đã được loan báo trên quê hương đất nước Việt Nam từ năm 1533. Trong quyển 26 phần chính biên, ở trang 66 sách Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, soạn thảo do chỉ dụ của vua Tự Đức vào năm 1856, chép sử từ đời Hồng Bàng từ năm 2789 trước Công nguyên có viết: “Giatô, dã lục, Lê Trang Tông, Nguyên Hòa nguyên niên, tam nguyệt nhật, Dương nhân Inêkhu tiềm lai Nam Chân chi Ninh Cường, Quần Anh, Giao Thủy chi Trà Lũ âm dĩ Giatô đạo truyền giáo”. Dịch nghĩa là: “Đạo Giatô, theo bút ký của tư nhân, đời Lê Trang Tông, tháng ba năm Nguyên Hòa thứ nhất (1533), có người Tây dương Inêkhu, lén vào truyền bá đạo Giatô ở làng Ninh Cường và Quần Anh thuộc huyện Nam Chân và làng Trà Lũ thuộc huyện Giao Thủy”[1]. Các địa danh Ninh Cường, Quần Anh (Quần Phương), Trà Lũ (Phú Nhai) đều thuộc về Giáo phận Bùi Chu.
Giáo phận Bùi Chu, trước khi là một Giáo phận như ngày hôm nay, đã được hình thành như sau: 
 
- Là một phần của Địa phận Đàng Ngoài: Địa phận Đàng Ngoài được thành lập từ năm 1659 (ngày 09/9/1659, Đức thánh cha Alexander II (1655-1667), đã ban sắc chỉ Super Cathedram, thành lập hai Địa phận đầu tiên tại Việt Nam: Địa phận Đàng Trong và Địa phận Đàng Ngoài). Địa phận Đàng Ngoài với ranh giới từ sông Gianh, gần Quảng Bình, trở ra tới hết Miền Bắc. 
 
- Là một phần của Địa phận Đông Đàng Ngoài: Địa phận Đông Đàng Ngoài được tách ra từ Địa phận Đàng Ngoài vào năm 1679 (Đức thánh cha Innocens XI (1676-1689), đã chia Địa phận Đàng Ngoài thành hai Địa phận: Đông Đàng Ngoài và Tây Đàng Ngoài). Địa phận Đông Đàng Ngoài phía tả ngạn của sông Lô và sông Hồng ra tới vịnh Bắc Bộ. 
 
- Là một phần của Địa phận Trung: Địa phận Trung được tách từ Địa phận Đông Đàng Ngoài vào năm 1848 (ngày 05/9/1848, Đức thánh cha Piô IX, đã ban sắc lệnh Apostolatus Officium chia Địa phận Đông Đàng Ngoài thành hai Địa phận: Địa phận Trung và Địa phận Đông). Lãnh thổ của Địa phận Trung bao gồm một phần tỉnh Hưng Yên, Thái Bình và khoảng 2/3 tỉnh Nam Định. Ngày 03/12/1924, Đức thánh cha Piô XI, đã ban sắc lệnh Ordinarie Indosinensis, quy định tất cả các Địa phận ở Đông Dương sẽ mang tên tại nơi định sở của Tòa Giám mục. Từ trước năm 1924, Tòa Giám mục của Địa phận Trung thường tọa lạc ở làng Bùi Chu hay các làng bên cạnh, nên các tín hữu quen gọi là Địa phận Bùi Chu. 
 
- Giáo phận Bùi Chu hiện nay: Ngày 09/3/1936, cũng Đức thánh cha Piô XI, đã ban sắc lệnh Praecipuas inter Apostolicas, tách phần đất thuộc tả ngạn sông Hồng của Địa phận Trung để thành lập Địa phận Thái Bình. Từ ngày đó tới nay, địa bàn của Giáo phận Bùi Chu bao gồm 6 huyện của tỉnh Nam Định như ngày hôm nay. 
 
Cũng nên lưu ý là trước khi hàng Giáo phẩm Việt Nam được thành lập, các Giáo hội địa phương tại Việt Nam được gọi là các Địa phận. Từ khi Đức Thánh Cha Gioan XXIII, với sắc lệnh Venerabilium Nostrorum thiết lập hàng Giáo phẩm tại Việt Nam vào ngày 24/11/1960, các Giáo hội địa phương tại Việt Nam tức là các Địa phận được nâng lên hàng Giáo phận chính tòa với ba Giáo tỉnh: Giáo tỉnh Hà Nội, Giáo tỉnh Huế, Giáo tỉnh Sài Gòn. 
 
Giáo phận Bùi Chu, vì là nơi đón nhận Tin Mừng từ sớm và với số lượng giáo dân đông đảo, nên trong thời kỳ cấm đạo đã bị bắt bớ và chịu nhiều đau khổ, thử thách. Rất nhiều tín hữu bị tù đày và bị giết hại. Trong số 117 vị Thánh tử đạo của Giáo hội Công Giáo tại Việt Nam đã được Đức thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong hiển Thánh vào ngày 19/6/1988, có tới 44 vị thuộc về Giáo phận Bùi Chu: 26 vị là người quê quán Bùi Chu (trong đó có 9 linh mục; 2 thầy giảng và 15 giáo dân), 18 vị là các thừa sai nước ngoài và các vị sinh ra từ nơi khác, nhưng đã đến phục vụ và tử đạo tại Giáo phận Bùi Chu (6 Giám mục và 5 linh mục người Tây Ban Nha; 6 linh mục và 1 thầy giảng người Việt). 
 
Trước biến cố di cư năm 1954, Giáo phận Bùi Chu có khoảng 231.446 tín hữu, 178 linh mục triều, 14 linh mục dòng; có Đại chủng viện Quần Phương (các lớp thần học) với 78 đại chủng sinh, trường Latinh Ninh Cường (các lớp triết học), trường thử Trung Linh (Tiểu Chủng viện); một số lớn nữ tu, 103 giáo xứ thuộc 13 giáo hạt với 484 Nhà thờ lớn nhỏ. Sau hiệp định Genève ngày 20/7/1954 chia đôi đất nước, Đức cha và phần lớn các linh mục (khoảng 142 linh mục), trong đó có Cha giám đốc, ban giáo sư Chủng viện, các chủng sinh, các Bề trên và các Hội dòng: Gioan Thiên Chúa, Đồng Công, Khiết Tâm (thầy giảng Bùi Chu), Mân Côi, Đa Minh, Mến Thánh Giá và Dòng Kín Cát Minh đã di cư vào miền Nam cùng với khoảng 150.000 giáo dân. Giáo phận rơi vào hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Cả Giáo phận còn lại khoảng hơn 80.000 tín hữu, 35 linh mục hầu hết là già yếu, nhiều cha đã về hưu nay phải trở lại coi xứ cùng với 54 thầy giảng và 90 nữ tu. 
 
Trong một thời dài không có chủng viện, tới ngày 07/12/2009, Tòa Thánh đã cho phép thành lập Đại chủng viện Đức Mẹ Vô nhiễm Bùi Chu. Và tới ngày 09/8/2017, nhà nước Việt Nam chính thức công nhận Đại chủng viện Đức Mẹ Vô nhiễm Bùi Chu là Đại chủng viện thứ tám của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Giáo phận Bùi Chu ngày hôm nay có khoảng 417.185 tín hữu, 13 giáo hạt với 209 linh mục triều, 13 linh mục dòng, 175 giáo xứ, 438 giáo họ, 196 chủng sinh, 1051 những người sống đời thánh hiến thuộc các dòng tu và tu hội, 192 dự tu.

2. Lịch sử Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu
Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu được các bậc tiền nhân xây dựng từ năm 1885 dưới thời Đức cha Venceslao Onate Thuận người Tây Ban Nha coi sóc Giáo phận. Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu với chiều dài 68m, chiều rộng 16m và chiều cao 15m. Nhà thờ có kiến trúc Baroque Tây Ban Nha, các đường nét hoa văn thể hiện sự hài hòa của kiến trúc Âu-Á. Tòa chính trên gian cung thánh, hai tòa phụ hai bên, các tòa nhỏ ở tường hai bên và trên các cột tôn kính các Thánh đều làm bằng gỗ, chạm trổ, sơn son thiếp vàng. Nổi bật là 18 cột chia thành hai hàng từ trên gian Cung thánh chạy xuống cuối Nhà thờ. Các cột gỗ lim này đường kính khoảng 60cm, cao 8,9 m, được đặt trên các bệ đá chạm trổ với hoa văn đẹp và tỉ mỉ. Trần Nhà thờ làm bằng tre, trát vôi rơm là những nguyên liệu tại địa phương, nhưng được đắp, trát theo hình Oval ba lá. Các cửa sổ đúc bằng gang có hình thánh giá. Nhà thờ có hai mái lợp ngói nam, nền Nhà thờ lát đá hoa. Hai tháp chuông cao 31m, trên có treo 4 quả chuông được đúc tại Pháp.

Tuy nhiên, vì Nhà thờ có trần, hơn nữa do điều kiện kinh tế vùng nông thôn khó khăn, nên chất lượng gỗ trên mái Nhà thờ không được tốt lắm. Mái Nhà thờ đã phải sửa chữa nhiều lần vì dột nước, do nhiều chỗ bị võng xuống. Dưới nền Nhà thờ, phía trên khu vực hai bên gian Cung thánh, là nơi an táng một số Đức Giám mục đã coi sóc Giáo phận Bùi Chu: Đức cha Venceslao Onate Thuận (1883 - 1897); Đức cha Pedro Munagorri Trung (1908 - 1936); Đức cha Đa Minh Hồ Ngọc Cẩn (1935 - 1948); Đức cha Giuse Phạm Năng Tĩnh (1960 - 1974); Đức cha Đa Minh Lê Hữu Cung (1975 - 1987); Đức cha Giuse Vũ Duy Nhất (1979 - 1999); Đức cha Giuse Hoàng Văn Tiệm, SDB (2001 - 2013). Trong Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu cũng lưu giữ xương của nhiều vị Thánh Tử đạo và các anh hùng Tử đạo chưa được Giáo hội tuyên phong.

Trải qua thời gian 135 năm, do ảnh hưởng của khí hậu vùng nhiệt đới ẩm ướt nhiều, nhất là phải chống chọi với những cơn bão thường xuyên xảy ra, nên Nhà thờ đã xuống cấp nghiêm trọng. Tường Nhà thờ bị nứt nẻ nhiều chỗ, vôi vữa và gạch mái Nhà thờ cũng bị rớt xuống. Đặc biệt, nền Nhà thờ đã lún xuống khoảng 70cm. Hai tháp chuông bị nghiêng về phía trước và về bên trái, không những tách khỏi tường Nhà thờ mà còn làm nền trong Nhà thờ nơi gần tháp chuông cũng bị nghiêng đi. Dù đã trải qua hai lần đại tu vào các năm 1974 và 2000, nhưng tình trạng xuống cấp của Nhà thờ càng ngày càng nghiêm trọng. Sự xuống cấp này thực sự rất nguy hiểm tới tính mạng của bà con giáo dân hằng ngày tham gia phụng vụ và cả tính mạng của những người tới hành hương, tham quan nữa, đặc biệt trong những ngày mưa to gió lớn.

Để bảo tồn và nâng cấp Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu, mấy năm nay Giáo phận đã có nhiều cuộc thảo luận, lắng nghe ý kiến đóng góp của linh mục đoàn, của những nhà chuyên môn và của cả bà con giáo dân. Với sự đồng thuận cao, Giáo phận đã quyết định đại tu nâng cấp Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu, trên nguyên tắc giữ lại hình dạng, kiến trúc và tất cả những di vật có thể giữ lại được. Nâng cao nền Nhà thờ, mở rộng gian cung thánh, nâng cao hai tháp chuông và sử dụng gỗ với chất lượng tốt hơn gỗ trước kia. Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu không đạt tiêu chuẩn để được xếp hạng di sản văn hóa. Ở Việt Nam chỉ có 4 Nhà thờ được xếp hạng di sản văn hóa: Nhà thờ Chính tòa Hà Nội, Nhà thờ Cửa Bắc Hà Nội, Nhà thờ Chính tòa Phát Diệm (Nhà thờ đá Ninh Bình) và Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn.

Cũng cần phải nói rằng, về kiến trúc và về xây dựng thì Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu cũng còn kém so với nhiều Nhà thờ trong Giáo phận Bùi Chu: Chẳng hạn, so với Vương cung Thánh đường Phú Nhai, Đền thánh Ninh Cường, Đền thánh Quần Phương, Đền thánh Hưng Nghĩa, Đền thánh Sa Châu, Đền thánh Báo Đáp, Nhà thờ giáo xứ Hai Giáp… Các cấp chính quyền cũng đã xem xét đánh giá và đã chấp thuận, cấp giấy phép cho việc đại tu xây dựng Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu vào năm 2016. Tuy nhiên, vì phải chuẩn bị những nguyên vật liệu cần thiết, nên tới ngày 07/10/2018, Tòa Giám mục Bùi Chu mới tiến hành khởi công phần mộc và tiếp theo là chuẩn bị việc hạ giải, đại tu xây dựng Nhà thờ.


3. Việc tái tạo Nhà thờ Chính tòa như dấu ấn cho giai đoạn phát triển mới của Giáo phận Bùi Chu
Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu là một trong những nhà thờ cổ kính của Giáo phận. Sự hiện diện của Nhà thờ gắn liền với rất nhiều kỷ niệm, biến cố thăng trầm của Giáo phận, nhất là khi Bùi Chu được kể là một trong những chiếc nôi của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Chính vì thế, nhiều người, ngay cả những người không Công giáo cũng có một cái nhìn trân trọng và quý mến đối với Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu. Họ mong muốn hình ảnh của Nhà thờ được tồn tại lâu dài. Tuy nhiên, được tạo thành bằng vật chất, tất cả mọi tạo vật, mọi công trình đều phải tuân theo những quy luật đã được Thiên Chúa an bài trong vũ trụ. Con người có muốn sống đến 200 tuổi thì cũng không thể được. Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu, một khi được xây dựng bởi những nguyên vật liệu tốt hơn sẽ tồn tại lâu hơn, nhưng cũng phải chấp nhận sự xói mòn theo thời gian. Hơn nữa, sự xuống cấp nghiêm trọng hiện nay của Nhà thờ có thể gây nguy hiểm tới tính mạng con người. Việc tái tạo Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu với mong muốn giữ lại hình dáng và kiến trúc cũ, nhưng với nguyên vật liệu chất lượng tốt hơn, không những làm cho hình ảnh và ký ức về Nhà thờ được bảo tồn, mà điều quan trọng là đáp ứng nhu cầu mục vụ, phù hợp với sự phát triển của toàn Giáo phận. Như vậy, việc tái tạo Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu sẽ là một dấu ấn cho giai đoạn phát triển mới của Giáo phận.

Chuẩn bị cho việc hạ giải

Ý định tái tạo Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu giữ được hình dáng và kiến trúc cũ, nhưng được nâng cao, kích thước có nới rộng thêm theo tỷ lệ bản vẽ thiết kế đã được đưa ra bàn luận nhiều, để rồi khi đã có sự thống nhất, Giáo phận đề nghị các cấp chính quyền cấp giấy phép xây dựng. Vì là Nhà thờ Chính tòa, được coi là bộ mặt của cả Giáo phận, nên đã có nhiều ý kiến đóng góp và nhiều cuộc thảo luận. Giáo phận cũng đã tham khảo ý kiến của của những nhà chuyên môn về kiến trúc, về xây dựng, nhất là những người đã đảm nhiệm xây dựng những công trình Nhà thờ, không những trong Giáo phận mà cả ở các Giáo phận khác. Trong số những giải pháp được đưa ra, có hai giải pháp chính. Mỗi giải pháp đều có mô hình, được vẽ phóng to và treo nhiều ngày tại Tòa Giám mục, để nhiều người, nhất là các linh mục trong Giáo phận đưa ra ý kiến chọn lựa của mình qua việc bỏ phiếu. Hai giải pháp đó là:

- Giải pháp thứ nhất: Giữ lại hình dáng và kiến trúc cũ, Nhà thờ vẫn có hai mái, nhưng nâng cấp theo tỷ lệ về kích thước, về chất lượng với nguyên vật liệu tốt hơn trước kia.

- Giải pháp thứ hai: Xây dựng Nhà thờ với hình dáng và kiến trúc mới, Nhà thờ có bốn mái rộng lớn, giống như một số Nhà thờ mới xây dựng trong Giáo phận.

Sau khi đã nghe ý kiến từ nhiều phía, mấy tháng sau các linh mục trong Giáo phận mới tiến hành bỏ phiếu, lựa chọn giải pháp thực hiện. Kết quả là giải pháp thứ nhất được đa số các linh mục trong Giáo phận lựa chọn. Sau khi đã thống nhất giải pháp, Tòa Giám mục cho vẽ bản thiết kế chi tiết và làm đơn đề nghị các cấp chính quyền cho phép tái tạo xây dựng Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu. Ngày 29/12/2016, Sở Xây dựng Nam Định với giấy phép xây dựng 128, đã cho phép Tòa Giám mục Bùi Chu tái tạo Nhà thờ Chính tòa theo như đơn đề nghị.

Sau khi đã có giấy phép xây dựng, Tòa Giám mục đã tiến hành chuẩn bị nguyên vật liệu mà trước hết phải chuẩn bị một lượng gỗ khá lớn. Gỗ được chọn để xây dựng là gỗ lim Campuchia, là loại gỗ tốt nhất để xây dựng Nhà thờ trong thời điểm hiện tại. Khó nhất là phải tìm đủ 24 cột lim, đường kính mỗi cột là 70cm với chiều dài 9,6m (Nhà thờ cũ có 18 cột gỗ lim, đường kính mỗi cột là 60cm và chiều dài là 8,9m) và các xà ngang nối hai hàng cột. Bởi vì các cây gỗ lim không những phải lớn về kích thước mà phải thẳng và phải đủ về chiều dài, cột và xà không được chắp nối. Khi đã chuẩn bị được một lượng gỗ tương đối thì phần mộc đã được khởi công từ ngày 07/10/2018. Các thợ mộc được chọn lựa từ các tổ thợ có tay nghề cao, đã có nhiều kinh nghiệm trong việc đục hoa văn các công trình Nhà thờ trong Giáo phận. Các cột Nhà thờ được bào nhẵn, đục đẽo đúng theo kích thước của bản thiết kế. Đặc biệt các trụ, các câu đầu được đục đẽo hoa văn, theo những đường nét hoa văn đẹp đã được tuyển chọn tại một số Nhà thờ trong Giáo phận. Hiện nay, những phần chính yếu về gỗ của Nhà thờ đã được chuẩn bị.

Giáo phận đã có nhiều cuộc họp của ban xây dựng và ban gỗ, để bàn luận và thống nhất không những về bản thiết kế chi tiết, mà còn thống nhất về phương cách hạ giải Nhà thờ, bảo tồn những di vật của Nhà thờ cũ, thống nhất về cách thức khởi công xây dựng Nhà thờ mới. Để lưu giữ lại hình ảnh Nhà thờ cũ một cách đầy đủ, chi tiết và lâu dài, theo kỹ số thuật hiện đại ngày hôm nay, Giáo phận đã làm hợp đồng để được cung cấp phần mềm Tour 3D - 3600, số hóa không gian Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu vào ngày 13/6/2019. Giáo xứ Chính tòa cũng dựng một Nhà thờ tạm mái tôn. Tất cả các Thánh lễ và các sinh hoạt mục vụ của giáo xứ Chính tòa trong thời gian công trình được tiến hành sẽ diễn ra tại Nhà thờ tạm này.

Tiến hành việc hạ giải

Theo như dự định Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu sẽ được hạ giải vào ngày 13/5/2019; nhưng phải dời lại, vì có những thư từ, những đề nghị được gửi tới các cấp chính quyền, cũng như nhiều ý kiến trái chiều trên các phương tiện truyền thông, đặc biệt là trên mạng internet. Tôn trọng ý kiến của người khác, để giúp người ta hiểu rõ hơn thực trạng của Nhà thờ Chính tòa Bùi chu cũng như nhu cầu chính đáng của Giáo phận trong việc tái tạo Nhà thờ Chính tòa, Tòa Giám mục Bùi Chu đã quyết định ngừng việc hạ giải để chuyển vào một thời điểm thuận tiện hơn.

Tới ngày 16/7/2020, nhân ngày Lễ Đức Mẹ núi Cát Minh, nghi lễ hạ giải đã được thực hiện và ngay trong ngày hôm đó bà con giáo dân và tổ thợ đảm nhận việc hạ giải đã tiến hành tháo dỡ các cửa sổ, lật dỡ các viên đá hoa trong Nhà thờ (các chuông trên cây tháp, các tòa và các ảnh tượng trong Nhà thờ đã được cẩn thận đem xuống từ trước). Những ngày sau đó tổ thợ hạ giải đã hợp đồng cùng với các máy cẩu cẩn thận tiến hành dỡ ngói và phần gỗ trên mái đưa về nơi quy định để bảo quản. Phần quan trọng nhất của việc hạ giải là việc đưa các xà và hạ các cột Nhà thờ xuống. Vấn đề không những phải bảo đảm an toàn vì các xà và các cột nặng khi rớt xuống có thể gây tai nạn, nhưng còn phải giữ lại được các mộng và phần đục đẽo ở đầu các xà và đầu các cột. Toàn bộ phần gỗ của Nhà thờ, các bồng đá kê các chân cột và các cửa sổ bằng gang đã được tháo dỡ cẩn thận, được vận chuyển về nơi bảo quản.

Khi hạ giải Nhà thờ, phần mộ của các Đức Giám mục cũng được che chắn cẩn thận để những bia đá có khắc chữ trên phần mộ không bị sứt mẻ. Theo dự tính, các bia đá này sẽ được nâng cao lên tới mặt của nền Nhà thờ mới, phần mộ phía dưới được bảo quản nguyên vẹn. Việc cuối cùng của phần hạ giải là hạ giải hai tháp chuông. Các tượng hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô ở hai tòa phụ hai bên, cũng như tượng Chúa Giêsu làm Vua ở tòa giữa mặt tiền Nhà thờ được cẩn thận hạ xuống. Các tượng này mặc dù được làm bằng đất nung, nhưng đã được đắp cẩn thận nên còn chắc chắn và khá đẹp. Riêng phần tòa và tượng Chúa Giêsu đã được tách ra để hạ xuống cả khối. Tất cả vôi vữa Nhà thờ cũ được vận chuyển ra kết hợp làm mặt bằng cho quảng trường Nhà thờ Chính tòa mới.

Việc tái tạo Nhà thờ Chính tòa như dấu ấn cho giai đoạn phát triển mới của Giáo phận Bùi Chu

Trước khi đi vào trình bày những đôi nét về việc tái tạo Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu, sau khi việc hạ giải được hoàn thành, chúng ta có thể đưa ra một nhận định chung: Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu cũ là hình ảnh cho Giáo phận Bùi Chu, một Giáo phận có chiều dài lịch sử, vui mừng vì được đón nhận đức tin từ sớm, nhiệt thành sống đạo và anh dũng làm chứng cho Chúa. Theo năm tháng, Nhà thờ cũ đã xuống cấp, nhưng những hình ảnh đẹp đẽ đó không hề mất đi. Trái lại, với việc tái tạo Nhà thờ mới, việc giữ lại hình dáng và kiến trúc cũ, sẽ làm cho những hình ảnh đẹp đẽ về Nhà thờ cũ được bảo tồn, lưu truyền lại cho các thế hệ mai sau, nhưng trong một giai đoạn lịch sử mới của Giáo phận.

- Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu mới sẽ được xây dựng trên nền Nhà thờ cũ, nhưng chiều dài thiết kế là 72,5m, chiều rộng 18m, chiều cao 18,2m. Hai tháp chuông cao 34,5m. So với Nhà thờ cũ, Nhà thờ mới nhìn bề ngoài sẽ có cùng hình dáng và kiến trúc, nhưng chiều kích lớn hơn một chút.

- Nền Nhà thờ sẽ được nâng cao 1,5m so với nền hiện tại. Sân Nhà thờ sẽ được nâng cao 40cm so với sân hiện tại. Móng Nhà thờ được xây bằng đá, gian cung thánh được ép cọc nhồi, được xử lý cách đặc biệt để bảo vệ nguyên vẹn phần mộ của các Đức Giám mục. Nền Nhà thờ cũng sẽ được lát đá hoa, gian cung thánh lát gỗ.

- Tường Nhà thờ sẽ được xây bằng gạch, các tòa chính, tòa phụ, bàn lễ sẽ được làm mới bằng gỗ tốt, với hoa văn và sơn son thiếp vàng như nhiều Nhà thờ trong Giáo phận.

- Nhà thờ mới cũng có hai mái được lợp ngói nam, nhưng vì phần gỗ phía trên tốt, nên không làm trần như Nhà thờ cũ. Chính điều này sẽ làm cho không gian phía trong Nhà thờ rộng và thoáng mát hơn.

- Tất cả khung cửa, cánh cửa, ghế ngồi, bàn quỳ trong Nhà thờ cũng sẽ được làm mới bằng gỗ lim. Các bồng đá kê các cột trong Nhà thờ mới cũng được làm theo mẫu của Nhà thờ cũ, nhưng kích thước lớn hơn một chút. Tất cả gỗ, những gì quý giá và những gì còn sử dụng được của Nhà thờ cũ, sẽ được sử dụng để dựng một nhà nguyện ở một vị trí khác gần Tòa Giám mục.

Thay lời kết

Thiên Chúa hiện diện qua thời gian và lịch sử của nhân loại. Chính Chúa Giêsu đã đến cứu chuộc nhân loại vào một thời gian nhất định. Người đã đi vào trong thời gian và lịch sử của nhân loại để cứu chuộc chúng ta. Nhắc tới một số điểm về lịch của Giáo phận Bùi Chu, về ngôi Nhà thờ Chính tòa, chúng con cũng muốn nhắc tới những ân sủng mà Thiên Chúa đã thương ban cho Giáo phận qua thời gian dài gần 5 thế kỷ với lòng yêu mến sâu xa và chân thành. Tuy nhiên, những ân sủng mà Thiên Chúa thương ban cần phải được con người đón nhận, làm cho nảy sinh hoa trái đem lại ơn ích cho những người khác. Đó chính là việc xây dựng Giáo hội địa phương, giúp mọi người nhận biết Chúa Giêsu Kitô và đón nhận ơn cứu độ của Người. Chính vì thế khi nhắc tới lịch sử của Giáo phận Bùi Chu, nhắc tới ngôi Nhà thờ Chính tòa, chúng con cũng muốn bày tỏ lòng tri cảm mến đối với các vị thừa sai, các bậc tiền nhân. Những người đã đem Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô tới mảnh đất Bùi Chu thân yêu, những người đã làm cho Tin Mừng được bén rễ sâu vào tâm hồn các tín hữu Công Giáo tại Bùi Chu với bao công khó nhọc, với mồ hôi, nước mắt và cả bằng máu đào.

Việc tái tạo Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu thực sự là một dấu ấn tốt đẹp cho giai đoạn phát triển mới của Giáo phận. Đây cũng chính là việc làm cần thiết và ý nghĩa của Giáo phận, qua đó mọi thành phần dân Chúa tại Bùi Chu bày tỏ lòng cảm tạ những hồng ân mà Thiên Chúa đã thương ban qua thời gian, tri ân các vị thừa sai và các bậc tiền nhân đã gắng công xây dựng Giáo phận Bùi Chu. Và sau cùng, việc tái tạo và nâng cấp Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu theo kiến trúc cũ cũng muốn nói tới tính kế thừa, bảo tồn và phát huy gia sản mà các bậc tiền nhân đã để lại. Điều đó cũng muốn nói tới một chân lý là thời gian, mọi sự đều biến đổi và có thể qua đi, nhưng Thiên Chúa và tình yêu của Người đối với con người thì không thể qua đi.

PHỤ LỤC

Diễn tiến sự việc chung quanh vấn đề truyền thông trên mạng Internet

Sự việc khởi đi từ lá thư kêu gọi “giải cứu” Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu của ông Martin Rama người Uruguay. Ông là cố vấn của Ngân hàng Thế giới và là giám đốc dự án của trung tâm phát triển đô thị bền vững thuộc viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. Ông đã gửi thư tới các cấp chính quyền từ Trung ương tới lãnh đạo tỉnh Nam Định. Tiếp theo là “đơn đề nghị cứu xét”, kiến nghị tạm dừng phá dỡ Nhà thờ Bùi Chu của nhóm hơn 20 kiến trúc sư, gửi Thủ tướng Chính phủ Việt Nam, Bộ Trưởng bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Chủ Tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Nam Định. Và tiếp theo là những bài viết trên mạng, với nhiều ý kiến và cách nhìn khác nhau về việc đại tu xây dựng Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu.

Cũng vì những thư đề nghị và những ý kiến như vừa nói trên, các cấp chính quyền từ Trung ương tới địa phương đã tới tận nơi để xem xét hiện trạng của Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu. Đây cũng là dịp để nhiều người, nhất là những người có thiện chí, thấy rõ hơn tình trạng xuống cấp nghiêm trọng của Nhà thờ. Chính điều này giúp nhiều người hiểu sự việc một cách đúng đắn hơn, truyền thông cũng dịu trở lại. Tòa Giám mục Bùi Chu đã tiếp đón các phái đoàn Trung ương: Ban Tôn giáo chính phủ, Cục Anh ninh nội địa, Cục Di sản Văn hóa, Hội kiến trúc từ Hà Nội… Các phái đoàn địa phương của tỉnh Nam định và huyện Xuân Trường: Tỉnh ủy, Ủy ban Nhân dân, Công an tỉnh Nam Định, Huyện ủy, Ủy ban Nhân dân, Công an huyện Xuân Trường. Ngoài ra, Tòa Giám mục cũng tiếp các vị khách nước ngoài đi cùng các phái đoàn tới thăm và xem xét hiện trạng của Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu: Ông Michael Croft trưởng đại diện văn phòng UNESCO tại Việt Nam và phái đoàn; ông Giorgio Aliberti Đại sứ Liên minh Âu châu (EU) tại Việt Nam và phái đoàn.

Chính ông Martin Rama cũng đã xuống Tòa Giám mục để khảo sát thực trạng Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu (Khi viết lá thư kêu gọi “giải cứu” thì ông chưa tới thăm Nhà thờ). Ông không phải là người Công giáo, nhưng có thiện chí trong việc đưa ra các giải pháp để bảo tồn Nhà thờ. Tuy nhiên, thật khó đối với ông khi phải hình dung giữa việc bảo tồn Nhà thờ để tham quan như một di tích lịch sử và việc phải sử dụng Nhà thờ Chính tòa trong việc cử hành phụng vụ hằng ngày, không những đối với giáo dân giáo xứ Chính tòa, mà nhiều khi phải cử hành đại lễ: Lễ Cha Thánh Đa Minh bổn mạng đệ nhị của Giáo phận, các Lễ Giáng Sinh, Phục Sinh, các Lễ truyền chức..., hay những sinh hoạt mục vụ mang tầm mức toàn Giáo phận: Sinh hoạt giới trẻ, giáo lý viên, sinh hoạt của sinh viên, các bà mẹ Công giáo, huynh đoàn giáo dân Đa Minh... của toàn Giáo phận.

Một vài nhận định

Qua việc khảo sát trực tiếp Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu, qua trao đổi với Tòa Giám mục, các phái đoàn từ Trung ương tới địa phương cũng như những người có thiện chí đều có chung những nhận định cơ bản sau:

- Có nhiều thông tin sai lạc về công trình Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu. Nhiều người lầm tưởng đó là Nhà thờ đá Phát Diệm (thuộc Giáo phận Phát Diệm) hay Vương cung Thánh đường Phú Nhai (thuộc Giáo phận Bùi Chu), khi nói rằng đó là di sản văn hóa và đẹp nhất Nam Định hay Nhà thờ đã được xếp hạng di sản văn hóa cần phải được bảo tồn.

- Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu đã xuống cấp nghiêm trọng, đặc biệt nền Nhà thờ bị lún xuống khoảng 70cm, hai cây tháp bị nghiêng, gây nguy hiểm tới tính mạng bà con giáo dân tham gia phụng vụ hằng ngày và cả tính mạng những khách tham quan.

- Việc tái tạo Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu đã được bàn hỏi, chuẩn bị kỹ lưỡng cả về phương diện chuyên môn. Về phía nhà nước, các cấp chính quyền cũng đã xem xét và đã cấp giấy phép xây dựng cho công trình.

- Ban đầu Giáo phận đã ấn định hạ giải Nhà thờ Chính tòa vào ngày 13/5/2019. Tuy nhiên, do có nhiều người chưa hiểu và có nhiều ý kiến trái chiều trên các phương tiện truyền thông, nên Giáo phận đã cho hoãn lại ngày hạ giải. Điều đó muốn nói lên sự tôn trọng của Giáo phận trước các ý kiến đóng góp của người khác. Tuy nhiên, vì tình trạng xuống cấp nghiêm trọng của Nhà thờ có thể gây nguy hiểm tới tính mạng con người, và theo nhu cầu phải có nơi phượng tự của Giáo phận, nên Giáo phận đã sắp xếp ngày hạ giải Nhà thờ Chính tòa Bùi Chu vào ngày 16/7/2020.

Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 121 (Tháng 11 & 12 năm 2020)

[1] TRẦN ĐỨC HUYNH, Lịch sử Địa phận Bùi Chu, Hội ái hữu Bùi Chu tại Hoa Kỳ 2000, tr 25.
 
9WH

ĐÀI PHÁT THANH VATICAN CHÚA NHẬT 11.4.2021

 

Thứ Bảy, 10 tháng 4, 2021

NHỜ THÁNH GIUSE MÀ KHÔNG AI CHẾT KHI MÁY BAY GÃY ĐÔI

NHỜ THÁNH GIUSE MÀ KHÔNG AI CHẾT 
KHI MÁY BAY GÃY ĐÔI

GPSG / Aleteia -- Thánh Giuse đã tỏ ra là một Đấng chuyển cầu rất quyền năng.

Một linh mục - em trai phi công của chiếc máy bay bị rơi và gãy đôi mà không ai tử vong - làm chứng về sự chuyển cầu của Thánh Giuse, Đấng Bảo trợ toàn cầu của Giáo Hội.

Vào thời điểm xảy ra tai nạn, vị linh mục này đang dành 30 ngày cầu nguyện để xin vị thánh chuyển cầu cho được “những điều tưởng chừng không thể xảy ra”. Vị linh mục nói: “Thánh Giuse có quyền năng rất lớn trước tòa Thiên Chúa”.

Tai nạn với 99 người trên máy bay mà không ai chết
Vụ tai nạn nghiêm trọng xảy ra vào ngày 30-3-1992, tại Tây Ban Nha. Chiều tối hôm đó, một chiếc máy bay McDonnell Douglas DC-9 Aviaco đã cất cánh từ Madrid đến Granada, thuộc miền nam Tây Ban Nha: chuyến bay 231. Trong quá trình hạ cánh, trời mưa to và gió giật mạnh. Do một luồng gió mạnh đặc biệt hướng xuống, bộ phận hạ cánh đã chạm đất với một lực lớn, khiến máy bay bật lên và rơi trở lại đường băng, tách thành hai phần khiến máy bay bị vỡ hoàn toàn khi máy bay trượt với tốc độ cao xuống đường băng.

Bất chấp tai nạn rất dữ dội và thực tế là hai nửa của máy bay dừng cách nhau khoảng 100 mét, tất cả 94 hành khách và 5 thành viên phi hành đoàn đều sống sót. Trong tổng số 99 người ngồi trên máy bay, 26 người bị thương, một người bị thương nặng. Tuy nhiên, tất cả đều hồi phục. Trường hợp này được mô tả là "chiếc máy bay kỳ diệu."

Phi công, Jaime Mazarrasa, là anh trai của một linh mục, cha Gonzalo, người đang học ở Roma vào thời điểm đó. Theo một bài báo - được hãng thông tấn Công giáo ACI Prensa đăng tải, dựa trên một tuyên bố đăng trên mạng xã hội Hozana về việc cầu nguyện, cha Gonzalo đã làm chứng về trường hợp này:

"Vào năm 1992, tôi đang học tại Rôma và ở trọ tại Trường Cao đẳng Thánh Giuse Tây Ban Nha, nơi đang kỷ niệm một trăm năm thành lập vào năm đó (…) Tôi đang kết thúc 30 ngày cầu nguyện để xin Thánh nhân chuyển cầu cho được 'những điều tưởng chừng không thể xảy ra', khi máy bay bị gãy đôi lúc hạ cánh xuống một thành phố ở Tây Ban Nha với gần một trăm người trên máy bay. Phi công là anh trai tôi. Chỉ có một người bị thương nặng, sau đó đã bình phục. Ngày đó, tôi nhận ra rằng Thánh Giuse có quyền năng rất lớn trước ngai tòa của Thiên Chúa”.

Vị linh mục người Tây Ban Nha nói tiếp:

"Năm nay, tôi cũng dành 30 ngày cầu nguyện với Bạn Trăm năm của Đức Mẹ vào tháng Ba này. Tôi đã cầu nguyện như thế này được 30 năm rồi, và ngài chưa bao giờ làm tôi thất vọng. Ngược lại, ngài luôn vượt xa niềm hy vọng của tôi. Tôi biết tôi tin tưởng vào ai. Để bước vào thế giới này, Thiên Chúa chỉ cần một phụ nữ. Nhưng để chăm sóc cho Bà và Con của Ngài, Chúa đã cần một người đàn ông, và Thiên Chúa đã chọn một người con của Nhà Đavít: Giuse, chồng của Maria - mẹ Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế.

Nếu bạn cũng muốn cầu nguyện 30 ngày với Thánh Giuse trong Năm dành riêng cho ngài, bạn có thể tìm thấy tại đây."

Francisco Veneto (Aleteia)
Tóc ngắn (TGPSG) chuyển ngữ 
 (WGPSG)

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT II MÙA PHỤC SINH NĂM B (Ga 20,19-31)


ĐÀI PHÁT THANH VATICAN THỨ BẢY 10.4.2021