Thứ Hai, 20 tháng 6, 2022

TIẾNG CHUÔNG MỜI GỌI

TIẾNG CHUÔNG MỜI GỌI

TGPSG -- Tiếng chuông còn là tiếng Chúa mời gọi mỗi người rằng giữa bộn bề của cuộc sống: Hãy đến với Ngài để “được nghỉ ngơi bồi dưỡng”...

Tiếng chuông nhà thờ rất đỗi thân thương, quen thuộc với chúng ta và thường vang lên nơi thị thành, nơi thôn quê, và có khi vang lên ngay cả tại các vùng sơn cước…

Ngay từ tấm bé, tiếng chuông trở nên một phần máu thịt trong tôi bởi vì nhà tôi ngay sát bên nhà thờ của giáo xứ. Tính ra mỗi ngày chuông đổ từ 3 cho đến 5 lần : ấy là vào lúc sáng sớm, 12 giờ trưa và giờ kinh lễ ban tối. Thường thì khi nào có lễ thì người ta sẽ báo chuông hai lần: chuông thứ nhất báo hiệu có lễ và chuông thứ hai sát giờ lễ. Do đó, nếu ai đó chưa đi lễ mà nghe thấy chuông hai thì cần nhanh chóng tới nhà thờ.

Còn nhớ khi dịch tới thì ở nhiều nơi tiếng chuông nhà thờ tạm thời không vang lên nữa. Tại Sài Gòn, tôi vẫn may mắn nghe được tiếng chuông từ một số nhà thờ vọng lại cho dù số lần tiếng chuông vang lên ít đi hẳn do việc hạn chế tụ họp đông người. Nếu không còn nghe thấy âm thanh đặc biệt ấy thì quả là thiêu thiếu một thứ gì đó.

Và rồi giờ đây, khi tình hình dịch bệnh đã được kiểm soát, các nhà thờ được tổ chức thánh lễ trở lại, tiếng chuông nhà thờ lại vang lên như trước. Tạ ơn Chúa thật nhiều!

Thường thì chúng ta dễ dàng nghe thấy tiếng chuông phát ra từ các nhà thờ hay các ngôi chùa. Giữa chuông nhà thờ và chuông chùa có sự khác biệt ở cung điệu và độ trầm bổng cũng như tốc độ.

Với bạn, tiếng chuông có đơn thuần chỉ là tiếng chuông hay không? Trong sách “An lạc từng bước chân”, thiền sư Thích Nhất Hạnh cho rằng: ngài chưa hề nghe tiếng chuông chùa kể từ khi ngài sang Châu Âu. Tuy nhiên, ngài lại sử dụng sử dụng chính tiếng chuông nhà thờ để tiến hành thực tập chánh niệm, nhất là khi ở Thụy Sĩ:

“Khi nghe tiếng chuông đổ, tôi dừng nói chuyện và khuyên thiền sinh để hết lòng lắng nghe tiếng chuông. Khi nghe tiếng chuông, chúng tôi dừng lại, theo dõi hơi thở và tiếp xúc được với những gì mầu nhiệm ở xung quanh, hoa lá, các em bé nhỏ, những âm thanh tuyệt diệu. Mỗi khi chuông ta quay trở về để tiếp xúc với cuộc sống trong giây phút hiện tại.”

Tiếng chuông nhà thờ rất đặc biệt. Đó không chỉ là âm thanh vang lên từ thứ được gọi là “chuông” mà thôi. Tiếng chuông vang lên, để lòng ta được bình an, thư thái. Không biết đã bao giờ bạn có cảm giác như vậy chưa? Giữa bao lo toan của cuộc sống trong lao động, học hành..., tôi chắc hẳn, nếu mọi người biết lắng đọng để cảm nhận đôi chút, để hòa mình vào âm điệu du dương, ngân nga ấy, thì tựa như mình đang được nâng lên khỏi mặt đất vậy.

Ngoài ra, tôi được nhắc nhớ về biến cố truyền tin của sứ thần Gabriel cho Đức Maria khi tiếng chuông nhà thờ vang lên. Do đó, những lúc ấy, tôi thường thầm thĩ cầu nguyện với Đức Trinh nữ Maria để biết sống khiêm nhường như Mẹ hơn mỗi ngày.

Theo tôi, tiếng chuông còn là tiếng lòng của con người. Những hồi chuông ngân vang mang theo tâm tư nguyện vọng của con người lên tới tận cõi trời cao xanh, như để thân thưa, tỏ lộ cùng Thiên Chúa tối cao.

Đặc biệt, tiếng chuông còn là tiếng Chúa mời gọi mỗi người rằng giữa bộn bề của cuộc sống, hãy đến với Ngài để “được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11, 28). Tuy nhiên, không ít lần con người đã hờ hững trước âm thanh thánh ấy. Khi đó, với họ, tiếng chuông chỉ là một loại âm thanh như bao âm thanh khác mà thôi. Thậm chí không ít người dù ngay sát nhà thờ nhưng vẫn “giả điếc làm ngơ”, không hề muốn đến nhà thờ cho dù đã được phép tụ họp thờ phượng. Ước gì, chúng ta luôn nhận ra lời mời gọi ấy và mau mắn đáp lại trong tinh thần hân hoan.

Cuộc sống đã trở lại bình thường, đại dịch đã được kiểm soát, tiếng chuông từ các nhà thờ vẫn hằng vang lên. Liệu rằng chúng ta có nghe, có cảm nghiệm được lời mời gọi của Chúa không hay vẫn còn vịn cớ dịch dã để rồi không muốn mở tai, mở lòng ra?

Kính chúc mọi người mọi sự tốt lành bằng an trong tình yêu thương của Chúa và Mẹ Maria!

Vj Vu (TGPSG
(WGPSG) 

VIDEO ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ ĐỌC KINH TRUYỀN TIN VỚI KHÁCH HÀNH HƯƠNG TRƯA CHÚA NHẬT, 19.6.2022


Chủ Nhật, 19 tháng 6, 2022

TỔNG GIÁO PHẬN SAIGON: TRỰC TUYẾN THÁNH LỄ CHIỀU CHÚA NHẬT MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ NĂM C

Bắt đầu lúc 17g30 Chúa Nhật, ngày 19.6.2022 
tại Trung tâm Mục vụ TGP Saigon.
 

THỎA MÃN CƠN ĐÓI

 THỎA MÃN CƠN ĐÓI
(Lễ Kính Trọng Thể Mình Và Máu Chúa Giêsu, Năm C – Ngày 19 tháng 6, 2022)

Lm. Patrick Riviere

Không ai muốn đói cả. Mỗi khi bạn đói, thân xác bạn sẽ nói với bạn rằng bạn đang thiếu thứ gì đó, đang hụt thứ gì đó và đang cần thứ gì đó để giải quyết cơn đói. Tự nhiên cảm giác thúc đẩy chúng ta hãy làm cho hết đói - tôi muốn ăn để hết đói. Tôi muốn cam đoan với bạn rằng hằng ngày hầu hết chúng ta đều cảm thấy đói - có lẽ giống như đám đông trong bài Tin Mừng hôm nay là những người đã theo Chúa Giê-su vào một nơi hoang vắng. Tôi tin chắc họ đói lắm.

Nhưng tôi nghĩ tất cả chúng ta đều có thể đồng ý rằng mình còn cảm nhận một cơn đói quan trọng hơn cả cơn đói thể xác - đó là cơn đói thiêng liêng, một sự khao khát thiêng liêng muốn có một thứ gì hơn thế nữa. Chính cơn đói ấy tôi muốn nói đến trong ngày lễ hôm nay. Tôi tưởng tượng ít nhất một số người trong chúng ta đang có mặt trong Thánh lễ hôm nay cũng vì cơn đói ấy. Chúng ta nhận ra là cuộc sống chúng ta đang mất thứ gì đó, đang có một sự thiếu vắng, và chúng ta đang tìm kiếm tại nơi nào đó – có lẽ là nơi duy nhất chúng ta biết – để lấp đầy khao khát đó. Tôi chắc chắn rằng đám đông dân chúng trong bài Tin Mừng hôm nay đã cảm nghiệm cơn đói thể xác khi ngày sắp tàn và không thể kiếm ở đâu ra lương thực nữa. Nhưng tôi cũng tưởng tượng họ đã cảm nghiệm một cơn đói thiêng liêng đã khiến họ ra đi đến giữa vùng hoang vắng để nghe một vị giảng thuyết nay đây mai đó, để chứng kiến những phép lạ chữa lành Người đã thực hiện. Họ đã muốn nhiều hơn nữa trong cuộc sống mình, và có thể, rất có thể, Người sẽ làm điều gì đó đối với các điều ước muốn của họ.

Cha Thomas Dubay, một tác giả tu đức học nổi tiếng, mô tả con người như một "cơn khát nhập thể", "một cơn khát trong thân xác." Ngài nói rằng chúng ta không thể làm gì khác ngoài việc tìm kiếm điều chúng ta đang khát, điều chúng ta đang đói, trong một nỗ lực nào đó để thỏa đáng ước muốn ấy. Đói khát là tốt – vì Thiên Chúa tạo dựng chúng ta như thế. Tuy nhiên, vấn đề không phải là chúng ta ước muốn quá nhiều; mà là chúng ta ước muốn quá ít. Chúng ta thu hẹp những ước muốn của mình lại và đặt ra những điều càng khiến chúng ta khao khát hơn nữa. Con người như thế, vấn đề như thế, cảm giác lớn lao tiếp theo như thế đấy. Ngôn sứ I-sai-a chủ ý viết cho dân Israel và cả chúng ta nữa nếu chúng ta thành thật: “Tại sao các ngươi lại hao phí tiền bạc, tốn công lao và làm lụng vất vả mà chẳng làm cho chắc dạ no lòng?” (Is. 55:2) Tại sao chúng ta lại tìm cách thỏa mãn cơn đói hết lần này đến lần khác trên những con đường cụt, cứ mong lần này sẽ khác lần trước?

Vậy điều gì làm thỏa mãn được cơn đói đó? Chúng ta có thể nói cách khác về cơn đói ấy: đói hạnh phúc, đói ý nghĩa, đói mục đích, đói thành công. Nhưng trả lời cuối cùng cho câu hỏi ấy là Đấng có tất cả những điều nói trên và còn hơn cả những gì chúng ta tưởng tượng được, chính là Thiên Chúa. Người là Đấng duy nhất có thể thỏa mãn “cơn khát nhập thể” mà tất cả chúng ta đang là. Những thứ khác có thể thỏa mãn cơn khát trong chốc lát, nhưng sẽ không bao giờ đủ. Chỉ có Người mới làm thỏa mãn mà thôi. Đó là những thứ Chúa Giê-su đem lại cho đám đông dân chúng đói khát kia – một thứ phong phú có lẽ người ta tưởng là chẳng có gì cả.

Nhưng đó lại là điều Chúa ban cho chúng ta – một điều hơn cả những gì chúng ta có thể tưởng tượng. Như thánh Phaolô nói với chúng ta trong Bài đọc 2, như các sách Tin Mừng nói với chúng ta, như Giáo Hội đã làm ngay từ ban đầu – là Chúa Giêsu đã hiến dâng chính thân mình cho chúng ta. “Đây là mình Ta, hiến tế vì anh em. Đây là Máu Ta, đã đổ ra vì anh em ” (Lc 22:19-20). Tại nơi đây, trong Thánh lễ này, chúng ta đến đối diện với Đấng duy nhất có thể thỏa mãn cơn đói khát của tâm hồn chúng ta. Thoạt nhìn, điều ấy có thể khiến ta thất vọng – Mình Máu Chúa trông giống như một miếng bánh và có lẽ như chẳng có tác dụng cụ thể nào đến cuộc sống của tôi. Trong bài Tin Mừng, ý nghĩ đầu tiên của các tông đồ là sử dụng các phương tiện loài người để giải quyết cơn đói của đám dân chúng. Nhưng Chúa Giê-su lại hành động theo một đường hướng khác. Chúa mời gọi chúng ta đừng sửa chữa nhưng hãy tin tưởng. Ngài mời gọi chúng ta hãy nhìn tất cả bằng con mắt đức tin và lắng nghe sự thật từ những lời Người nói cho chúng ta trong mỗi Thánh lễ: “Đây đích thực là Thịt của Ta, hiến tế vì anh em.” Người mời gọi chúng ta hãy cho Người một cơ hội để Người làm ước muốn trong lòng chúng ta được mãn nguyện. Đó là những gì Giáo hội đã thực hành và luôn trung thành tuân giữ ngay từ đầu với lời hứa ấy của Chúa Giê-su. Sự hiện diện của Bí tích Thánh Thể, Mình và Máu thật, là điều làm nên Giáo hội, là điều định nghĩa đức tin chúng ta và là điều sẽ tồn tại cho đến ngày tận thế.

Hiển nhiên niềm tin vào Bí tích Thánh Thể trong thế giới chúng ta không phải là niềm tin mạnh mẽ nhất. Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ đang thực hiện những bước tiến lớn trong ba năm tới để hồi sinh đức tin đó – không phải bằng cách phổ biến những lý luận hoặc những chứng lý chi tiết về Bí Tích Thánh Thể, mà bằng cách mời mọi người thực hiện một bước đức tin, để tin điều có thể kia, đó là Chúa có thể lấp đầy cơn đói ấy của tâm hồn bạn. Nếu chúng ta cho Người một cơ hội, Người sẽ không để chúng ta thất vọng. Vậy khi Người đến nơi đây hôm nay, bạn hãy để Người làm cho cơn đói của bạn được thỏa mãn.

JB. Đào Ngọc Điệp
Chuyển ngữ từ: hprweb.com (27.5.2022)
(WHĐ)

 

ĐÀI PHÁT THANH VATICAN CHÚA NHẬT 19.6.2022


LỜI & ĐẤT HỨA: CHÚA NHẬT 12 THƯỜNG NIÊN NĂM C, KÍNH MÌNH VÀ MÁU THÁNH CHÚA KITÔ - NHÀ THỜ BÁNH VÀ CÁ HÓA RA NHIỀU

Thứ Bảy, 18 tháng 6, 2022

TỔNG GIÁO PHẬN SAIGON: TRỰC TUYẾN LẦN CHUỖI MÂN CÔI VÀ THÁNH LỄ CHÚA NHẬT MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ NĂM C

Bắt đầu lúc 17g00 Thứ Bảy, ngày 18.6.2022 
tại nhà thờ Chính toà Đức Bà Saigon.
 

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KITÔ NĂM C (Lc 9,11b-17)


MÌNH MÁU THÁNH CHÚA CAO TRỌNG LẮM, BẠN ƠI!


MÌNH MÁU THÁNH CHÚA CAO TRỌNG LẮM, BẠN ƠI!

Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ.

Đại Lễ Mình Máu Thánh Chúa đưa chúng ta đến với tình yêu vô biên và quyền năng của Thiên Chúa, qua chính Ngôi Hai là Chúa Giê-su. Ngài đã mặc lấy xác phàm của con người để cứu độ chúng ta. Như hạt lúa mì Ngài đã rơi xuống đất, chết đi để rồi biết bao sự sống mới được mở ra. Đó là hy tế tuyệt vời của Chúa trên bàn thờ. Trước hy tế là món quà cao trọng này, muôn người từ khắp nơi và trong mọi thời luôn thờ lạy và tôn vinh, đặc biệt trong dịp mừng đại lễ Mình Máu Thánh Chúa.

Đại lễ Mình Máu Thánh Chúa và lòng thờ kính của muôn người.

Đại Lễ Mình Máu Thánh Chúa được mừng kính từ thế kỷ thứ 13. Sau Công đồng Vaticanô II, một vài sửa đổi đã được thực thi, trong đó lễ Corpus Christi – Mình Máu Thánh Chúa, được mừng kính vào ngày thứ năm sau Chúa Nhật sau Lễ Chúa Ba Ngôi. Suốt hơn 8 thế kỷ trôi qua, cứ đến ngày lễ kính Mình Thánh Chúa, khắp nơi, trong nhiều giáo xứ, người ta tổ chức chầu lượt thờ lạy Chúa Thánh Thể và rước kiệu cách trọng thể Mình Máu Thánh Chúa.

Ở miền Nam nước Đức có truyền thống Rước Kiệu Thánh Thể Chúa thật long trọng, để tôn vinh Bí Tích cao trọng này, như ở tại Munich. Lúc còn học triết học tại đó, mỗi lần đến ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa, chúng tôi cùng tham dự thánh lễ trọng thể ở quảng trường trung tâm của thành phố. Sau đó là cuộc rước kiệu rất long trọng với mọi thành phần, từ Đức Hồng Y đến các chú giúp lễ, rồi các tu sĩ linh mục và giáo dân cùng biết bao nhiêu hội đoàn, cả nhóm cảnh sát ngồi trên lưng ngựa. Tất cả với sự nghiêm trang và tâm tình thờ lạy Chúa Thánh Thể đều muốn diễn tả niềm tin thật đẹp, thật sâu lắng và mạnh mẽ vào Bí Tích Cực Thánh, Bí Tích mà mỗi người Công Giáo đều được chuẩn bị đón nhận, khi còn tuổi thiếu nhi.

Thánh Thể Chúa và thuở ấu thơ.

Nhớ lại thời thơ ấu, khi được học giáo lý chuẩn bị cho việc rước lễ lần đầu, các đứa trẻ như chúng tôi hồi hộp lắm. Ngoài việc phải học thuộc giáo lý và các lời kinh, các Sơ còn giúp cho chúng tôi cảm nhận được sự cao trọng của Mình Máu Thánh Chúa, vì nơi bí tích này tình yêu của Chúa Giê-su được biểu lộ cách rõ ràng và thật gần gũi nữa.

Chắc chắn chúng tôi chẳng hiểu được những gì cao siêu, nhưng chỉ với Đức Tin đơn sơ, chúng tôi tin rằng, khi vị linh mục đọc lời truyền phép, là lúc bánh và rượu được trở nên Mình Máu Thánh Chúa. Giây phút này là giây phút quan trọng nhất trong Thánh Lễ, chúng tôi được dạy phải chắp tay lại, không được lơ đễnh, không được ngủ gà ngủ gật, không được nói chuyện với bạn bên cạnh. Chúng tôi, những đứa trẻ hiếu động, phải đi vào tĩnh lặng ít nhất trong vài khoảnh khắc, để toàn bộ con người tập trung vào những gì đang diễn ra trên bàn thờ, đôi mắt chăm chú hướng về bàn thờ với đôi tay chắp lại thật nghiêm trang, để chiêm ngắm giây phút long trọng chuẩn bị xảy ra qua lời truyền phép của vị Linh Mục.

Rồi tới khi được rước lễ lần đầu tiên trong đời, cùng với các bạn, chúng tôi những đứa trẻ được mặc chiếc áo trắng đẹp nhất, sạch nhất, và gia đình nào khá giả thì là áo mới nhất. Chúng tôi chỉnh tề vào hàng ngũ và thật nghiêm trang bước lên các hàng ghế đầu trong nhà thờ.

Thánh Lễ bắt đầu, chúng tôi cố gắng chuẩn bị tâm hồn, để đây là Thánh Lễ thánh thiện nhất, cao trọng nhất và tuyệt vời nhất của đời mình. Bao nhiêu hiếu động thích đùa, thích nói của tuổi thơ được “cất vào ngăn tủ”, ít là trong vòng hơn một tiếng đồng hồ. Đến giây phút được rước Mình Máu Thánh Chúa, các Sơ sắp xếp hàng lối của chúng tôi đâu ra đấy và lần lượt từng đứa trẻ được đón nhận qua môi miệng tấm bánh Thánh là Mình Chúa được thấm chút rượu nho là Máu Chúa. Ôi hồi hộp và đẹp biết bao nhiêu giây phút cao trọng mà tuổi thơ được trải nghiệm. Rồi thật nghiêm trang về lại chỗ. Không được ngồi, mà quỳ xuống ngay, mắt nhắm lại, tay chắp lại và rồi miệng nhấp nháy lời kinh các Sơ đã dạy để cám ơn Chúa Thánh Thể.

Cộng với trải nghiệm trên, chúng tôi nhớ lại một tinh thần đạo đức rất tuyệt trong giáo xứ. Đó là ngày chầu lượt. Vẫn còn nhớ những ngày chầu lượt, nhà thờ mở cửa từ sáng sớm đến chiều tối. Mọi hội đoàn và mọi người trong giáo xứ được mời gọi dành thời gian trong ngày đến chầu Chúa Thánh Thể. Khung cảnh nhà thờ và cả ngoài khuôn viên nhà thờ trở nên sống động hơn mọi ngày. Đó là ngày mà muôn người trong giáo xứ “trẩy hội Đền Thờ” rất đẹp! Vẫn nhớ đến người Mẹ yêu thương. Trong ngày chầu lượt, Mẹ lo lắng chuẩn bị bữa ăn đơn sơ, để gia đình dành thời gian nhiều cho Chúa. Mẹ cũng luôn nhắc nhở chúng tôi dành thời gian đến chầu Chúa Thánh Thể. Người người trẩy hổi, nhà nhà trẩy hổi và cả giáo xứ chúng tôi trẩy hội Đền Thờ để thờ lạy Đấng Yêu Thương, Đấng trao ban chính Mình và Máu Thánh của Ngài để nuôi sống linh hồn chúng tôi.

Các trải nghiệm tuổi thơ đó đã diễn tả sống động sự cao trọng của Mình Máu Thánh Chúa trong đời sống Ki-tô hữu. Từ ngày đó, Mình Máu Thánh Chúa “đồng hành” với cuộc đời của người tín hữu cho đến giây phút cuối đời. Nói khác đi, Mình Máu Thánh Chúa trở nên lương thực thiêng liêng cao quý nhất đối với đời sống đức tin của người Ki-tô hữu, nhất là khi họ rơi vào trong những hoàn cảnh sống không được đón nhận của ăn thiêng liêng này cách thường xuyên.

Thánh Thể Chúa trong vòng xoay lịch sử.

Khi đến tuổi trưởng thành, chúng tôi cảm nhận được lời mời gọi của Chúa bước vào đời sống dâng hiến. Trong bối cảnh xã hội khá tế nhị lúc đó, chúng tôi những thanh niên chập chững đi tìm hiểu ơn gọi dâng hiến ở chủng viện Sài-gòn, được cha linh hướng chủng viện mời gọi bước vào thời gian “tôi luyện”. Chúng tôi được gởi tới sống trong một nông trường và chung đụng với mọi thanh niên thuộc đủ mọi thành phần.

25 anh em chúng tôi bước vào môi trường này, chúng tôi sống ở các nhà khác nhau thuộc nông trường. Ban ngày vất vả ra cánh đồng 09 tiếng và làm việc dưới cái nắng gắt từ 35 độ đến 40 độ. Chúng tôi trồng, chăm sóc cùng thu hoạch trái Dứa, cây Mía, cây Bạch Đàn cùng mọi việc khác. Lao động trên cánh đồng nắng nôi suốt ngày vất vả, cộng vào đó thức ăn và nước uống rất thiếu thốn. Có những ngày chúng tôi chỉ ăn cơm với “thịt cọp – đó là muối ớt”, hay “sang hơn” là chút xì-dầu. Có ngày thì mỗi đứa được miếng thịt Trâu “dai như đỉa”, cắn không đứt, chỉ có mút để lấy chút “mặn” cho bữa cơm trưa.

Nước uống là nước mưa là chính. Vào mùa hè nóng bức, nước mưa cạn dần. Nhóm thanh niên ăn xong xếp hàng để uống nước từ một hồ chứa nước mưa. Vẫn nhớ hình ảnh, có ngày nước trong bể đã gần cạn, thêm vào là rác và mọi thứ nằm ở dưới đáy hồ. Sau bữa ăn trưa, từng đứa chú tâm cúi sâu vào trong hồ múc ly nước mưa để uống, nhưng khi múc cần phải cẩn trọng, để không làm cho nước bị khuấy động và rác rưởi trồi lên làm đục nước. Nếu không, người anh em sau mình sẽ la lối, vì nước đã bị rác làm đục. Thê thảm hơn, có ngày nước mưa trong bể hết. Đi làm ở ngoài đồng giữa trời nắng oi bức, mỗi nhóm cần phải có khoảng từ 10 đến 15 lít nước đưa theo để giải khát. Lấy nước ở đâu?

Tại chỗ chúng tôi ở, ngay cửa ra vào, có một container ngày xưa đựng xăng dầu, giờ đã rỉ sét. Trên container nắp đậy đã mở sẵn, nhờ thế mà nước mưa “rơi vào” trong mùa mưa. Chúng tôi “chui vào” container và kín 10 lít nước vào bình nhựa đem ra cánh đồng. Nhưng ôi thôi, nước từ container rỉ sét, nên có màu nâu của sét. Dù vậy, bình nước màu nâu của sét vẫn được nhóm chúng tôi thay phiên nhau “giải khát”, sau những nhát cuốc bở hơi tai và mồ hôi ra như tắm.

Cuộc sống vất vả ở nông trường với sự thiếu thốn cái ăn cái uống, nhưng nhóm chúng tôi gồm 25 thanh niên đang tìm hiểu ơn gọi dâng hiến không bao giờ nản chí. Dù chúng tôi không có cơ hội đi đến nhà thờ mỗi ngày, nhưng chúng tôi vẫn luôn nâng đỡ nhau trong các giây phút “lén lút chia sẻ Lời Chúa và cùng cầu nguyện chung”. Đặc biệt, có những buổi chiều tối chúng tôi âm thầm hẹn nhau, cùng “lén lút” đạp xe trên bờ đê đến nhà của hai Thầy Dòng Tên gần đó. Trong ngôi nhà của hai Thầy chúng tôi sung sướng được cử hành Phụng Vụ Lời Chúa và đặc biệt được hai Thầy cho đón nhận Thánh Thể Chúa. Thật là một diễm phúc lớn lao. Cái thiếu của ăn nước uống cho thân xác được bù đắp bởi lương thực thiêng liêng cao quý là chính Thánh Thể Chúa. Mỗi lần được tham dự bàn tiệc cao quý đó, chúng tôi rất vui mừng. Còn ngày nào chúng tôi không được đến rước Thánh Thể Chúa ở nhà hai Thầy, chúng tôi khuyến khích nhau “rước lễ thiêng liêng”, để Chúa Giê-su Thánh Thể luôn hiện diện trong tâm hồn và cuộc sống của chúng tôi trên cánh đồng với đá sỏi cùng nắng nôi gay gắt này.

Có thể nói rằng, Thánh Thể Chúa thật là lương thực cao quý nuôi sống và bổ dưỡng cùng thăng tiến đời sống của chúng tôi, những thanh niên tìm hiểu ơn gọi dâng hiến. Đến nay hơn 30 năm trôi qua, từ 25 anh em vào thời đó đi tìm ơn gọi dâng hiến, Thiên Chúa đã chọn 22 anh em chúng ta vào ơn gọi Linh Mục Tu Sĩ. Trong đó một anh em được Chúa trao ban sứ mạng cao quý Giám Mục, và một số anh em đón nhận sứ mạng quan trọng như Giám Đốc Chủng Viện, Giáo Sư Chủng Viện. Ngoài ra, một hai anh em sống đời gia đình và một anh em qua đời ngay trong thời gian ở nông trường.

Thánh Thể Chúa đã đi vào giai đoạn lịch sử khó khăn vất vả của chúng tôi là vậy đó. Ô cao quý thay Mình Thánh Chúa, lương thực nuôi sống linh hồn chúng tôi và đời sống dâng hiến của chúng tôi.

Từ một giai đoạn ngắn trong lịch sử của đời chúng tôi, mời bạn cùng đọc lại lịch sử Giáo Hội. Chính Đức Thánh Cha Phanxico nhắc nhớ rằng, chúng ta không thể quên con số lớn lao các Ki-tô hữu trên toàn thế giới trong hai ngàn năm lịch sử, đã kháng cự tới chết để bênh vực Thánh Thể, và biết bao nhiêu người cả ngày nay nữa liều mạng sống để tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật.

Vào năm 304 dưới thời hoàng đế Diocleziano bắt đạo, có một nhóm Ki-tô hữu ở Bắc Phi đã bị bắt thình lình trong khi họ đang cử hành Thánh Lễ trong một căn nhà. Trong cuộc hỏi cung quan tổng tài Roma hỏi họ tại sao lại làm điều đó, khi biết nó bị cấm triệt để. Họ đã trả lời: “Không có Chúa Nhật chúng tôi không thể sống được, có nghĩa là nếu chúng tôi không thể cử hành Thánh Thể, chúng tôi không thể sống, cuộc sống kitô của chúng tôi sẽ chết”.

Thật thế, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ Ngài rằng: “Nếu anh em không ăn thịt Con Người và không uống máu Người, anh em không có sự sống. Ai ăn thịt Ta và uống Máu ta thì có sự sống vĩnh cửu và Ta sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6,53-54).

Các Ki-tô hữu Bắc Phi này trong thời đầu tiên của Giáo Hội đã bị giết vì cử hành Thánh Thể. Họ đã làm chứng rằng người ta có thể khước từ cuộc sống trần gian vì Thánh Thể, bởi vì Thánh Thể trao ban cho chúng ta sự sống đời đời, bằng cách khiến cho chúng ta thông phần vào chiến thắng của Chúa Kitô trên cái chết.

Một trải nghiệm khác trong chiến tranh thế giới thứ hai: Cha Walter Ciszek bị bắt tại Nga. Ngài bị giam trong tù hai mươi ba năm. Sau khi được thả, ngài viết cuốn sách nhan đề là Người đã dẫn dắt tôi (He Leadeth Me). Trong đó có hàng sau: “Chúng tôi đã dâng Thánh lễ trong những kho chứa đồ, hoặc tụm lại giữa chỗ bùn lầy hoặc tuyết tan của một góc nền nhà sắp xây… Vậy mà trong những hoàn cảnh thô sơ ấy, Thánh lễ đã đưa chúng tôi đến gần Chúa hơn là người ta tưởng.”

Cha Walter đã diễn tả một cộng đoàn tù nhân Công Giáo bé nhỏ thường bí mật tụ họp nhau mỗi khi có thể để cử hành Thánh Thể như vậy đó. Hơn nữa, vào thời đó, theo luật người Công Giáo phải nhịn ăn uống từ sau nửa đêm để được rước lễ ngày hôm sau. Trong những Thánh lễ bí mật này, cộng đoàn thường để dành Mình Thánh lại để đem cho những tù nhân Công Giáo khác không thể tham dự. Cha Ciszek viết: “Đôi khi chúng tôi chỉ gặp được họ khi chúng tôi trở về nhà giam vào buổi tối trước bữa ăn. Thế mà những người này vẫn nhịn đói cả ngày và lao động liên tục mà không một miếng bỏ bụng từ tối hôm trước, chỉ vì họ muốn được rước Thánh Thể. Vậy mới biết Bí tích Thánh Thể đối với họ quý trọng dường nào.”

Qua những chứng tá trên cùng trải nghiệm của trẻ thơ, tôi cảm nhận rằng, người Kitô hữu cần phải luôn tái khám phá lại sự cao trọng của Mình Máu Thánh Chúa, để qua đó luôn sống một cách tràn đầy hơn tương quan của mình với Thiên Chúa. Chính các thánh đã để lại cho chúng ta những tâm tình rất tốt lành giúp ta khám phá sự cao trọng của Thánh Thể Chúa.

Sự cao trọng của Thánh Thể Chúa đối với một số thánh nhân.

Thật vậy, dù chúng ta có ý thức và nhận ra sự cao trọng của Mình Máu Thánh Chúa hay không, thì giá trị đó vẫn luôn bền vững. Trong thế kỷ thứ 4 thánh Gioan Kim Khẩu (Ioannes Chrysostomos 347-407) đã nói: “Anh em hãy để tâm suy nghĩ về vinh dự khi anh em được cất nhắc lên đồng bàn tham dự tiệc thánh. Điều mà các thiên thần run sợ khi chiêm ngắm Ánh Huy Hoàng chói lọi, Đức Kitô lại ban cho chúng ta làm của ăn, bằng mọi cách, Ngài lấy chính máu mình nuôi dưỡng chúng ta, Ngài kết hợp chúng ta với Ngài, để chúng ta được hợp cùng Đức Kitô và hiệp nhất cùng nhau như một thân mình và một xác vậy”.

Một số vị thánh khác gần với thời đại của chúng ta nêu bật tầm mức quan trọng đặc biệt của Mình Máu Thánh Chúa trong đời sống tâm linh và Đức Tin.

Đó là anh Charles de Foucauld, mới được tôn phong hiển thánh vào ngày 15.5.2022. Thời gian sống ẩn dật ở Na-da-rét và ở trong Sa mạc Sahara, anh Charles đã chọn hai yếu tố nền tảng luôn nằm ở trung tâm cuộc đời Anh: Tin Mừng và Thánh Thể. Chúng ta có thể đọc tâm tình của anh Charles trong cuốn “Ai có thể chống lại Thiên Chúa”: “Với lòng khiêm tốn sâu xa, tôi đọc Kinh Thánh, cùng với ước ao được đọc sách ấy từ đầu đến cuối, chỉ vì Chúa, để nhận biết Ngài, yêu mến Ngài, phụng sự Ngài cách tốt hơn; gia đình nghèo khó ở Nadaret, tôi sẽ đọc Sách Thánh thường xuyên nhất trước nhà tạm linh thánh, vào lúc cuối ngày…khi mà, công việc kết thúc, tôi chẳng còn việc nào khác để làm ngoài việc nghỉ ngơi bên chân Ngài, đồng thời tôn thờ Ngài trong sự hồi tâm vào những giờ phút bình yên buổi tối.

Trong tương quan với Thánh Thể, Charles de Foucauld không cư xử theo kiểu nhà thần học tìm cách phân tích Thánh Thể là gì, nhưng Thánh Thể chính là tâm điểm của cuộc đời Anh. Kể từ ngày anh được hoán cải, Thánh Thể đã được cụ thể hoá, đã làm cho cuộc gặp gỡ của Anh với Chúa Giêsu trở nên sống động và thực tế. Mầu nhiệm Nhập Thể được tiếp tục trong sự hiện diện của Thánh Thể Đức Kitô”.

Thật vậy, Nhà Tạm Thánh Thể trở nên “đồng cỏ xanh tươi”, nơi anh được gặp gỡ Chúa, được nghỉ ngơi bồi dưỡng và kín múc sự dịu ngọt và bình an sâu thẳm Chúa ban tặng, dù anh sống trong Sa mạc hiu quạnh.

Trong Sa mạc Sahara, anh Charles tiếp tục mối tương quan thân mật với Thánh Thể. Anh viết cho chị họ Bondy: “Em không hề đau khổ chút nào vì sự hiu quạnh nơi đây, nhưng em nhận thấy nó thật ngọt ngào; em có Thánh Thể, người bạn tốt nhất để cùng nói chuyện ngày đêm”.

Thánh Thể là người bạn tốt nhất, là hồng ân bất tận đối với anh Charles. Anh cũng tâm tình: “Này là Mình Thầy… Này là Máu Thầy (Mt 26,26-28)… Hồng ân bất tận ấy của Thánh Thể khiến chúng ta phải yêu mến một Thiên Chúa hết sức tốt lành, hết sức gần gũi, hết mình ở cùng và ở trong chúng ta, vẻ đẹp và sự hoàn hảo tối thượng ấy tự hiến cho chúng ta, đi vào trong chúng ta, không cần phải giải thích, vì điều đó đã quá hiển nhiên…

Thánh Thể chính là Chúa Giêsu, là tất cả Chúa Giêsu!… Trong Thánh Thể, Chúa ngự đó trọn vẹn, hoàn toàn sống động, là Giêsu-chí-ái của con, cũng y hệt như khi xưa Chúa sống tại nhà của Thánh Gia ở Nazareth… Như khi ở giữa các Tông đồ vậy. Cũng thế, Chúa đang ở đây, lạy Chúa-chí-ái và Tất Cả của con!”

Đó là chị thánh Edith Stein, Dòng Kín, từ một người vô thần, một nhà trí thức người Đức gốc Do-thái, trở lại Công Giáo, đi tu Dòng Kín và phải đón nhận cái chết tử đạo bởi Phát-xít Đức, chị đã diễn tả về Bí Tích Cực Trọng này như sau: “Thiên Chúa đã chuẩn bị Bữa Ăn cho tất cả mọi người chúng ta. Như thế, chúng ta cũng cần phải chuẩn bị đón nhận. Bí Tích Thánh Thể là nguồn mạch ân sủng lớn nhất, vì Chúa đã tự mình ngự trong đó. Việc chuẩn bị cần được thực hiện thật tốt với lòng kính trọng Chúa, cụ thể với các tâm tình: Cần xa tránh tội lỗi và tìm cách làm cho hậu quả do tội lỗi gây ra được xóa bỏ; cần ‘trang sức’ trái tim mình với lòng sốt sắng đạo đức đẹp lòng Đấng Cứu Rỗi, và tương hợp với tinh thần của các thiên thần và các thánh; cần ‘trang sức’ trái tim mình với các của lễ mà chính chúng ta đã được đón nhận từ Chúa. Cuộc sống của chúng ta cần phải là sự chuẩn bị cho Bí Tích Thánh Thể, và Bí Tích Thánh Thể cần trở nên sự chuẩn bị cho chính cuộc sống của chúng ta, để rồi lời tạ ơn của chúng ta luôn là cuộc sống tràn đầy hương thơm của Thánh Thể.

Chúng ta cần tưởng nhớ đến sự sống và sự chết của Chúa Giê-su trong Của Lễ Hiến Dâng Thánh Thiện này. Nhưng không chỉ là một sự tưởng nhớ mà thôi. Sự đau khổ của Chúa Ki-tô cần hiện diện và ảnh hưởng luôn mãi trong Của Lễ Hiến Dâng Thánh Thiện này. Sự đau khổ của Chúa Ki-tô sẽ đưa lại hoa quả tốt lành cho chúng ta, nếu chúng ta để cho sự đau khổ đó ảnh hưởng trên chúng ta, và giúp chúng ta trở nên của lễ hiến dâng mà chúng ta tự mình dâng lên Thiên Chúa với chức tư tế của chúng ta”.

Ngoài ra, chị thánh Edith Stein còn diễn tả tâm tình thờ lạy và tôn vinh Chúa Thánh Thể trong Nhà Tạm như là ngôi tòa cao sang. Dưới đây là một vài câu trong bài thơ với tựa đề “Ta ở với các con…” được viết vào dịp đại lễ Mình Máu Thánh Chúa, ngày 16.6.1938:

“Lạy Chúa, đó là ngôi tòa của Chúa trên trái đất này,
Chúa đã dựng ngôi tòa này để con được chiêm ngắm Chúa,
và Chúa thật vui thích khi nhìn thấy con ở gần bên Chúa.

Với tình yêu dịu hiền Chúa hướng nhìn đến con,
Chúa ghé tai của Chúa gần bên con,
để lắng nghe lời thầm thì của con,
và Chúa đổ đầy bình an vào trái tim con.

Thật vậy, tình yêu của Chúa không bao giờ ngơi nghỉ.
Trong tình yêu luôn cháy bỏng,
Chúa không để cho sự chia cách xảy đến.
Trái tim Chúa luôn khao khát hơn nữa.

Mỗi buổi sáng, như lương thực buổi sớm Chúa đến với con,
Mình và Máu Chúa trở nên của ăn và của uống cho con.
Ôi, điều tuyệt vời xảy đến và ảnh hưởng trên con.

Mình Thánh Chúa đã thấm nhập cách nhiệm mầu vào thân xác con,
linh hồn Chúa kết hiệp nên một với linh hồn con.
Con không là con như trước đây nữa rồi.

Chúa đến và rồi Chúa đi, nhưng hạt giống ở lại.
Từ hạt giống này Chúa sẽ gặt được vinh quang cho Chúa,
hạt giống ẩn mình trong thân xác từ bụi tro của con”.


Đó là Mẹ Tê-rê-sa Can-cút-ta. Với Mẹ Mình Máu Thánh Chúa là điều cao trọng và nền tảng trong đời Mẹ, cũng như trong linh đạo của các cộng đoàn và hiệp hội truyền giáo khác nhau do mẹ thành lập. Mẹ nói: “Bởi đâu chúng ta được niềm vui yêu mến? Bởi Thánh Thể, bởi sự hiệp thông. Chúa Giêsu muốn trở nên bánh để ban cho chúng ta sự sống. Ngày và đêm, Người hiện diện ở đó. Trong các cộng đồng chị em chúng tôi, mỗi ngày chúng tôi cầu nguyện một giờ trước Thánh Thể. Và từ khi chúng tôi bắt đầu cầu nguyện như thế, tình yêu của chúng tôi đối với Chúa Giêsu trở nên thân mật hơn, tình yêu huynh đệ trở nên thông cảm hơn, và tình yêu đối với người nghèo khổ trở nên cảm thương hơn”.

Mẹ Tê-rê-sa cũng nhắm đến thập giá và nhà tạm, như hai biểu tượng cụ thể cho tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại: “Khi nhìn lên thập giá, chúng ta biết rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến thế nào. Và khi nhìn lên nhà tạm, chúng ta biết rằng Người vẫn ở đó để yêu thương chúng ta như thế nào”.

Đó là cha Phê-rô Arrupe, nguyên tổng quyền Dòng Tên và hiện nay ngài đang được Giáo Hội xét phong thánh. Trong cuốn sách nhỏ của ngài với tựa đề “Thánh Thể trong đời tôi”, cha Arrupe kể lại kinh nghiệm sau: “Tôi xin kể lại kinh nghiệm riêng về Thánh Thể. Kinh nghiệm này cho tôi nhận ra sự can thiệp của Thiên Chúa, Đấng đã dẫn dắt tôi và tiếp tục dẫn dắt tôi trong đời. Ngay lúc này, tôi tin chắc các bạn cũng đã có kinh nghiệm về cách thức Thiên Chúa dẫn dắt các bạn trong cuộc sống.

Kinh nghiệm đầu tiên của tôi về Thánh Thể liên quan đến ơn gọi vào Dòng Tên của tôi. Tôi đã chứng kiến một phép lạ xảy ra ở Lộ Đức đang khi rước kiệu Thánh Thể. Mùa hè năm đó, tôi ở Lộ Đức. Vì cha tôi mới chết vài tuần trước đó, tôi và gia đình tôi muốn nghỉ hè ở một nơi yên tĩnh, thinh lặng và thiêng liêng.

Vì là sinh viên y khoa, nên tôi được phép đặc biệt để tiếp cận và nghiên cứu các bệnh nhân đến đây xin ơn lành bệnh. Một ngày kia, khi tôi đang ở trong sân Thánh Đường cùng với mấy người chị, trước cuộc rước kiệu Thánh Thể vài phút, một người phụ nữ trung niên đã đẩy một chiếc xe lăn đi ngang qua trước mặt chúng tôi. Một chị của tôi liền kêu lên: “Nhìn người thanh niên đáng thương ngồi trên chiếc xe lăn kìa!” Đó là một thanh niên độ 20 tuổi, thân thể dị dạng vì những cơn co giật của chứng bại liệt. Mẹ cậu lần hạt lớn tiếng, và thỉnh thoảng lại than thở: “Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria, xin cứu giúp con cùng”.

Thật là một cảnh tượng đầy xúc động, gợi lại cảnh những người mắc bệnh phong van xin Chúa Giêsu: “Lạy Thầy, xin cho tôi được lành sạch!” Bà vội vàng giành lấy một chỗ giữa đám người đang chờ Đức Giám Mục mang Mặt Nhật Thánh Thể đi ngang qua. Khi Đức Giám Mục nâng Thánh Thể chúc lành cho người bệnh nhân trẻ, cậu ngắm nhìn Thánh Thể với một niềm tin đã từng ánh lên trong cái nhìn của người bại liệt trong Tin Mừng.

Đang khi Đức Giám Mục nâng Mặt Nhật Thánh Thể lên, người thanh niên đột nhiên đứng dậy và ra khỏi xe lăn, trong khi mọi người reo lên vui mừng: “Phép lạ! Phép lạ!”. Anh ta được chữa lành hoàn toàn.

Tôi được phép dự những cuộc khám nghiệm cùng với các bác sĩ liền sau đó. Quả thật, Thiên Chúa đã chữa người thanh niên lành bệnh. Tôi là sinh viên thuộc khoa y thành phố Madrid (Tây Ban Nha). Nơi ấy có biết bao giáo sư và sinh viên không tin vào Chúa. Họ thường chế nhạo các phép lạ, trong khi tôi lại là chứng nhân tận mắt một phép lạ thực sự. Phép lạ Chúa Giêsu Kitô trong Thánh Thể thực hiện vì chính người đã từng chữa biết bao người tàn tật và bệnh nhân. Tôi cảm thấy vui mừng khôn tả: tôi có cảm tưởng mình đang ở gần Chúa Giêsu; khi nghĩ đến sức mạnh toàn năng của Ngài, thế giới xung quanh bắt đầu trở nên hết sức nhỏ bé đối với tôi.

Tôi trở về Madrid, sách vở để qua một bên. Những bài học, những kinh nghiệm từng làm tôi vui thích, dường như trở nên vô nghĩa đối với tôi. Các bạn tôi hỏi: “Chuyện gì đã xảy ra với cậu vậy? Trông cậu phờ phạc quá!…” Đúng là tôi phờ phạc. Cái kỷ niệm ấy đã làm cho tôi phải sửng sốt. Hình ảnh của Bánh Thánh và người thanh niên bất toại bật dậy khỏi chiếc xe lăn đã in sâu vào tâm trí tôi và đã biến đổi tôi. Ba tháng sau đó, tôi xin vào tập viện Dòng Tên ở Loyola”.

Đó là Đấng Đáng Kính, Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Trong bài giảng tĩnh tâm dành cho giáo triều Roma năm 2000, ngài đã kể lại về kinh nghiệm dâng Thánh Lễ trong lao tù, qua đó ta nhận ra được rằng: Thánh Thể là trung tâm đời sống của ngài. Đức Hồng Y viết:

Năm 1975, khi bắt đầu ở tù, tôi âu lo tự hỏi: “Tôi có thể dâng lễ được nữa hay không?” Đó cũng là câu hỏi mà về sau các tín hữu đã hỏi tôi. Vừa khi thấy tôi, họ hỏi: “Trong tù Đức Cha có làm lễ không?”

Trong lúc thiếu thốn mọi sự, Thánh Thể là điều chúng ta nghĩ đến trước nhất: đó là Bánh hằng sống. “Ai ăn bánh này thì sẽ được sống đời đời, và bánh Ta ban chính là thịt Ta để cho thế gian được sống” (Ga 6, 51).

Biết bao nhiêu lần tôi đã nhớ đến câu nói của các vị tử đạo ở Abitene (thế kỷ thứ IV): “Sine Domonico non possumus! – Chúng tôi không thể sống mà không cử hành Thánh Lễ” (Cf Giovanni Paolo II, Dies Domini, n. 46).

Trong mọi thời đại, nhất là trong thời kỳ bách hại, các Kitô hữu sống bí quyết Thánh Thể: là lương thực của các chứng nhân, là bánh hy vọng.

Eusebio thành Cêsarêa nhắc nhở rằng các Kitô hữu đã không bỏ qua việc cử hành Thánh Lễ ngay cả giữa những cuộc bách hại: “Mỗi nơi chịu khổ hình đều trở thành nơi cử hành Thánh Lễ cho chúng tôi.. dù đó là một cánh đồng, một sa mạc, một con tàu, một quán trọ hay một nhà tù…” (Historia ecclesiastica VII, 22, 4: PG 20, 678-688). Tử Đạo Thư của thế kỷ 20 cũng đầy những trình thuật về các buổi cử hành Thánh Lễ bí mật trong các trại tập trung. Bởi vì không có Thánh Thể, chúng ta không thể có sức sống của Thiên Chúa!…

Trở lại kinh nghiệm của tôi. Khi bị bắt, tôi phải ra đi tay không, đi ngay lập tức. Ngày hôm sau, tôi được phép viết cho những người thân để xin những thứ cần thiết nhất như quần áo, kem đánh răng… Tôi viết: “Xin vui lòng gửi cho tôi một chút rượu thuốc để chữa bệnh đường ruột”. Các tín hữu hiểu ngay. Họ gửi cho tôi một chai nhỏ đựng rượu lễ, bên ngoài có ghi: “Thuốc chữa bệnh đường ruột”, còn bánh lễ thì họ giấu trong một ống nhỏ chống ẩm thấp.

Giám thị hỏi tôi:

– Ông bị bệnh đường ruột?
– Phải. Tôi trả lời.
– Đây, có ít thuốc cho ông đây.

Tôi không bao giờ có thể diễn tả hết niềm vui lớn lao của tôi: mỗi ngày, với ba giọt rượu và một giọt nước trên lòng bàn tay, tôi cử hành Thánh Lễ. Và đó cũng là bàn thờ, là nhà thờ chính toà của tôi! Đó là liều thuốc đích thực cho linh hồn và thân xác tôi: “thuốc trường sinh bất tử, thuốc giải độc để khỏi chết, nhưng luôn được sự sống trong Chúa Giêsu”, như thánh Ignatio thành Antiokia đã nói (Ad Eph. 20,2: Patres Apostolici, I, Ed. F. X. Funk, pp. 230 – 231).

Mỗi lần như thế tôi được dịp giang tay và đóng đinh mình vào thập giá với Chúa Giêsu và cùng với Ngài uống chén đau khổ nhất. Mỗi ngày, khi đọc lời truyền phép, với tất cả tâm hồn, tôi làm lại một giao ước mới, một giao ước vĩnh cửu giữa tôi và Chúa Giêsu, hoà lẫn Máu Ngài với máu của tôi. Đó là những Thánh Lễ đẹp nhất trong đời tôi!…

Thế là, trong nhà tù, tôi cảm thấy chính trái tim của Chúa Kitô đập trong tim tôi. Tôi cảm thấy rằng cuộc sống của tôi là cuộc sống của Ngài, và cuộc sống của Ngài là cuộc sống của tôi.

Thánh Lễ trở thành một sự hiện diện âm thầm và đầy khích lệ cho tôi và các Kitô hữu khác giữa đủ mọi khó khăn. Chúa Giêsu Thánh Thể được các bạn tù Công Giáo thờ phượng một cách kín đáo, như bao nhiêu lần đã xảy ra trong các trại tù của thế kỷ XX…

Chúa Giêsu đã trở thành “người bạn đường đích thực của chúng ta trong Bí tích Thánh Thể” như thánh nữ Têrêsa Avila đã nói (Libro de la Vida, cap. 22, n.6)”.

Còn đối với vị Cha Chung của chúng ta, Đức Thánh Cha Phanxico, ngài luôn dành chỗ đặc biệt cho Mình Máu Thánh Chúa, ngài đã nhắc nhớ chúng ta: “Thánh Thể là một biến cố tuyệt diệu trong đó Chúa Giêsu Kitô, sự sống của chúng ta, hiện diện. Tham dự Thánh Lễ “là sống một lần nữa cuộc khổ nạn và cái chết cứu chuộc của Chúa. Đó là một sự hiển linh: Chúa hiện diện trên bàn thờ để được hiến dâng cho Thiên Chúa Cha cho ơn cứu độ của thế giới” (Bài giảng Thánh Lễ, Nhà trọ Thánh Marta, 10-2-2014). Chúa ở đó với chúng ta, Ngài hiện diện. Nhưng biết bao lần chúng ta đến đó, chúng ta nhìn các sự việc, chúng ta nói chuyện bép xép với nhau, trong khi linh mục cử hành Thánh Thể… Nhưng chúng ta không cử hành gần Ngài. Nhưng đó là Chúa!”.

Tất cả những tâm tình thiêng liêng cùng trải nghiệm sống kết hiệp và thờ lạy Thánh Thể Chúa của các thánh nhân như là một nhắc nhớ cho bạn và cho tôi hôm nay: “Thánh Thể Chúa cao trọng lắm đó, Bạn ơi!”.

Chúng ta cùng chạy đến với Chúa Thánh Thể khi nào có thể, để kết hiệp với Ngài, để đón nhận tình yêu cao quý của Chúa ban và để nghỉ ngơi bên Ngài cùng kín múc nguồn năng lực thiêng liêng cho đời sống nhiều lo toan vất vả của chúng ta.

Thay cho lời kết

Thay cho lời kết chúng ta cùng đọc suy tư của thánh tiến sĩ Tôma Aquino được Giáo Hội đưa vào giờ kinh Sách của lễ Mình Máu Thánh Chúa: “Cao quý và lạ lùng thay bữa tiệc của Chúa, bữa tiệc mang lại ơn cứu độ và đầy dịu ngọt !

Quả thật, còn gì quý giá hơn bữa tiệc ấy ? Ở đó không phải là thịt bê thịt dê như trong luật cũ nữa, mà là chính Đức Ki-tô, Thiên Chúa thật, được dọn ra cho chúng ta rước lấy. Còn gì kỳ diệu hơn bí tích này?

Cũng không có bí tích nào đem lại lợi ích dồi dào hơn, vì nhờ bí tích này, tội lỗi được tẩy sạch, nhân đức được gia tăng, và tâm hồn được chan chứa mọi ân huệ thiêng liêng. Bí tích này được tiến dâng trong Hội Thánh để cầu cho kẻ sống và kẻ chết, hầu sinh ích cho mọi người, vì đã được lập ra cho mọi người được ơn cứu độ.

Cuối cùng, không ai đủ sức diễn tả sự ngọt ngào của bí tích ấy, dù đã cảm nếm được sự dịu dàng thiêng liêng ngay tại nguồn mạch. Tình yêu bao la tuyệt vời mà Đức Ki-tô đã tỏ ra trong cuộc Thương Khó của Người lại được kính nhớ trong bí tích này.

Vậy, để ghi khắc sâu hơn tình yêu bao la ấy vào lòng các tín hữu, thì trong bữa ăn tối cuối cùng, sau khi mừng lễ Vượt Qua với các môn đệ, lúc sắp qua khỏi thế gian này mà về cùng Chúa Cha, Đức Ki-tô đã lập bí tích này để làm kỷ vật muôn đời ghi nhớ cuộc Thương Khó của Người, để hoàn tất những hình ảnh xưa tiên báo; đó là phép lạ lớn nhất trong các phép lạ Người làm; đồng thời Người đã lưu lại niềm an ủi đặc biệt cho những kẻ buồn phiền vì Người vắng bóng”.

Tiếp với suy tư trên của thánh nhân, ta cùng kết với bài thánh thi Kinh Chiều Pange lingua gloriosi cũng do thánh Tôma sáng tác:

“Nào ca hát để họp mừng mầu nhiệm
Vua muôn dân đã hiến trót thân mình,
Dâng máu đào làm lễ tế hy sinh,
Làm giá chuộc muôn người trên thế giới.

Người tự hiến cho ta nên chẳng ngại
Sinh làm con Đức Trinh Nữ vẹn toàn,
Trót cuộc đời gieo chân lý Phúc Âm
Và kết thúc bằng điềm thiêng kỳ diệu.

Đêm dự bữa tiệc ly cùng bạn hữu,
Khi đã dùng thực phẩm luật truyền xưa,
Người trao tay cho tất cả môn đồ
Mình Máu Thánh làm thần lương mỹ vị.

Câu tuyên phán của Ngôi Lời nhập thể
Đã làm cho bánh thật nên Mình Người,
Rượu nho thành bao giọt máu hồng tươi,
Mắt chẳng thấy nhưng lòng tin vững mạnh.

Ôi bí tích thật cao vời khôn sánh,
Ta bái thờ Chúa đang ngự nơi đây,
Nghi lễ xưa đâu sánh bí tích này,
Niềm tin thế cho giác quan cảm nghiệm.

Lòng hớn hở, cùng tán dương trìu mến
Cha uy quyền và Con Một từ nhân,
Cùng tôn vinh ca ngợi Chúa Thánh Thần,
Xin chúc tụng Ba Ngôi ngàn muôn thuở”. Amen

(WHĐ)

ĐÀI PHÁT THANH VATICAN THỨ BẢY 18.6.2022

Thứ Sáu, 17 tháng 6, 2022

TỪ NGỮ CÔNG GIÁO TRONG MỘT SỐ TỤC NGỮ, CA DAO TIẾNG VIỆT


TỪ NGỮ CÔNG GIÁO 
TRONG MỘT SỐ TỤC NGỮ, CA DAO TIẾNG VIỆT

Linh mục Giuse Vũ Văn Khương

Tóm tắt: Đối với người Công giáo, Đạo không phải một cái gì cao siêu vượt lên sinh hoạt đời thường, nhưng đi vào trong sinh hoạt đời thường, làm cho đời thường bớt dần tính “thường” hơn. Chính vì thế, cho dù khi du nhập, Việt Nam đã thấm nhiễm các yếu tố Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo, thì Công giáo vẫn ghi lại những dấu ấn riêng của mình góp phần làm cho văn hóa nước ta thêm phong phú. Các từ ngữ Công giáo trong một số tục ngữ ca dao có mặt trong nhiều lãnh vực đời sống mà bài nghiên cứu là một phần khẳng định cho nhận định đó.

1. Đặt vấn đề

Tiến sĩ Nguyễn Huy Thông viết: “Cả một kho tàng ca dao, tục ngữ Công giáo cũng đã được lưu hành để phản ánh về phong tục, tập quán của cộng đoàn này.” [8]. Đây là một nhận định có phần “rộng rãi” vì các đơn vị có thể được gọi là ca dao, tục ngữ Công giáo tại nước ta có số lượng tương đối hạn chế. Tuy nhiên, phát biểu của nhà nghiên cứu uy tín về Công giáo tại Việt Nam này đã cung cấp một sự nhìn nhận chính thức mang tính học thuật cho sự hiện diện những “ca dao, tục ngữ Công giáo” trong kho tàng văn học dân gian Việt. Bài viết của chúng tôi lựa chọn những ca dao, tục ngữ chứa những từ ngữ được dễ dàng nhận biết có nguồn gốc Công giáo để nghiên cứu.

2. Các ca dao tục ngữ về lao động sản xuất

Bên cạnh những câu ca dao, tục ngữ nói về lao động sản xuất rất phổ thông như:

Tháng chạp là tháng trồng khoai,
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà....

Thì cũng có những câu mang đặc trưng Công giáo mà người đọc dễ dàng nhận ra. Chẳng hạn nói về thời hạn mùa vụ trồng bí của bà con:

Lễ Rosa thì tra hạt bí
Lễ Các thánh thì đánh bí ra.

Theo kinh nghiệm của người nông dân vùng Công giáo, cứ lễ Rôsa thì tra hạt ươm giống, lễ Các Thánh thì đánh cây giống xuống ruộng thì hợp với thời tiết và mùa vụ của giống cây trồng này.

Hay nói về thời gian mùa vụ cấy lúa vụ chiêm đông xuân, thì có:

Lễ Các Thánh gánh mạ đi gieo
Lễ Sinh Nhật giật mạ đi cấy…

Trong các câu ca dao – tục ngữ về lao động sản xuất này, chúng ta nhận thấy có các từ ngữ vốn là các biệt ngữ Công giáo như: lễ Rôsa (vào ngày 07 tháng 10 dương lịch), lễ Các Thánh (vào ngày 01 tháng 11 dương lịch), lễ Sinh Nhật (còn gọi là lễ Giáng Sinh hay lễ Noel tổ chức vào ngày 25 tháng 12 dương lịch). Đây là tên gọi các ngày lễ Công giáo đã vượt qua ranh giới của ngôn ngữ phụng vụ (ngôn ngữ tôn giáo), đi vào trong ngôn ngữ sinh hoạt đời thường ở một mức độ “phi biệt ngữ hóa” khá cao là ca dao – tục ngữ.

3. Các câu ca dao – tục ngữ về tình yêu, hôn nhân, gia đình

Cũng như lãnh vực về thời tiết và lao động sản xuất, mảng về tình yêu hôn nhân gia đình là một mảng khá phong phú về số lượng sáng tác trong kho tàng ca dao – tục ngữ Việt Nam.

Khảo sát mảng ca dao tục ngữ này, chúng tôi xác định được một số đơn vị từ ngữ Công giáo, ví dụ:

Mẫu đơn nở cạnh nhà thờ
Đôi ta trinh tiết đợi chờ lấy nhau

Nội dung câu ca dao: Nhắc nhở các đôi nam nữ giữ lòng trinh tiết, là luật bắt buộc đối với những ai chưa bước vào đời sống hôn nhân.

Amen, lạy Đức Chúa Trời
Xin cho bên Đạo, bên Đời lấy nhau.

Nội dung câu ca dao: lời cầu xin hàm chứa tinh thần phản kháng trước truyền thống của Giáo hội Công giáo về việc hạn chế kết hôn giữa người có đạo và người không có đạo.

Em lạy Đức Chúa Ba Ngôi
Em lấy được vợ em thôi nhà thờ.

Nội dung câu ca dao: Câu ca dao vui có ý nhắc nhở các chàng trai ngoài Công giáo chỉ theo đạo với mục đích cưới vợ.

Giải thích các từ ngữ Công giáo:

Amen (, Amen, Amen, Amen)[1]: Từ gốc Hipri với nghĩa đúng thật như vậy, ước gì được như vậy. Vì thế, Amen có thể được dùng để diễn tả sự trung tín của Thiên Chúa, sự chân thật, vững vàng trong các lời hứa của Ngài và lòng trông cậy của con người đối với Ngài (3: số 1062).

Trong Cựu Ước, đặc biệt trong sách tiên tri Isaia có kiểu nói “Thiên Chúa của Amen”, nghĩa là Thiên Chúa Chân Thật (x. Is 65,16). Amen còn biểu lộ sự đồng tình với một lời nói (x. Gr 28,6), chấp nhận một sứ mệnh (x. Gr 11,5), thừa nhận một cam kết (x. Ds 5,22) và kết thúc một lời nguyện hay một lời tôn vinh Thiên Chúa (x. Tv 41,14).

Trong Tân Ước, Amen được Chúa Giêsu dùng như là công thức mạc khải, nhấn mạnh những gì Người nói là chính Lời của Thiên Chúa (x. Mt 6,2). Amen được sách Khải Huyền dùng như tước hiệu của Chúa Giêsu: “Người là Amen của Thiên Chúa vì Người thực hiện mọi lời hứa của Thiên Chúa” (Kh 3,14). Trong Phụng vụ, Amen được cộng đoàn sử dụng như công thức để hiệp thông với chủ tế, tin nhận và tôn vinh Thiên Chúa (3: số 1345).

Đạo (宗 敎, Religio, Religion, Religion): Tôn giáo. Thường dùng trống có nghĩa là đạo Thiên Chúa (Công giáo): Theo đạo (theo Công giáo), Người có đạo (người Công giáo), Nhà thờ đạo (nhà thờ Công giáo), Bỏ đạo (bỏ Công giáo). [6:388].

Đời (Monde laique): Bên ngoại hay bên ngoài (đối với bên đạo, tức Công giáo): Cô ấy đã trở về đời. [6:447]

Đức Chúa Trời (天 主, Deus, God, Dieu): Từ do linh mục Alexandre de Rhodes (còn gọi là cha Đắc Lộ) đặt trong tiếng Việt để gọi Đấng Tối Cao của người Công giáo, có ý hội nhập văn hóa với danh xưng Ông Trời trong văn hóa thờ Trời của người Việt Nam. Từ ngữ Công giáo tiếng Việt còn một danh xưng đồng nghĩa nữa thường dùng hơn là Thiên Chúa.

Đức Chúa Ba Ngôi (天 主 聖 三, Trinitas, Trinity, Trinité): Khái niệm duy chỉ có nơi Kitô giáo về Đấng Tối Cao. Một Thiên Chúa duy nhất mà có ba ngôi vị là Cha – Con – Thánh Thần, còn gọi là Tam Vị Nhất Thể. Ba Ngôi Vị chỉ là một Thiên Chúa, vì mỗi Ngôi Vị đều có trọn vẹn bản thể duy nhất và không thể phân chia (3: số 48). Niềm tin này khởi đi từ mạc khải của Đức Giêsu rằng Thiên Chúa duy nhất (x. Mc 12,29) và cũng là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (x. Mt 28,19); còn gọi là Thiên Chúa Ba Ngôi hay Chúa Ba Ngôi.

Nhà thờ: (教堂, Ecclesia, Church, Église): còn gọi là thánh đường hay giáo đường, khác với nhà thờ họ, nhà thờ tổ của tín ngưỡng thờ kính Tổ tiên. Nhà thờ Công giáo được xây dựng theo các quy định buộc phải tuân thủ đã ghi trong Giáo Luật (3: số 1215 - 1222), có cấu trúc gồm phần cung thánh và phần dành cho giáo dân. Phần cung thánh gồm có bàn thờ để cử hành Thánh lễ, giảng đài để công bố Lời Chúa, nhà Tạm để cất giữ Mình Thánh Chúa. Nhà thờ vừa là nơi cộng đoàn giáo hữu quy tụ để thờ phượng Thiên Chúa, cử hành các Bí tích, vừa tượng trưng cho sự hiện diện của Hội Thánh toàn cầu trong địa phương đó.

4. Ca dao, tục ngữ về đời sống tôn giáo

Giốc một lòng trông một Đạo

Nội dung tục ngữ: Răn dạy người tín hữu trung thành giữ đức tin và luật đạo.

Có thực mới vực được Đạo.

Nội dung tục ngữ: Muốn giữ được luật đạo thì đời sống vật chất phải khả dĩ ổn định đã. Câu tục ngữ này thường bị coi là mang ý nghĩa tiêu cực.

Đi đạo lấy gạo ăn ngay

Hay

Đi đạo lấy gạo mà ăn

Nội dung tục ngữ: Theo đạo chỉ vì lợi ích vật chất chứ không có niềm tin tâm linh, tôn giáo. Ý nghĩa tiêu cực.

Xưa kia chỉ biết kêu trời,
mà nay đã biết gọi Trời là Cha,
trần gian chẳng phải là nhà,
đi về vĩnh cửu gặp Cha trên trời.

Nội dung ca dao: Câu ca dao nói lên niềm vui của người tìm thấy chân lí đức tin trong Công giáo khi theo đạo; thấy được Ông Trời vẫn tôn kính theo văn hóa giờ không còn xa lạ nhưng là cha của mình, và thấy được lời hứa quê hương vĩnh cửu ở đời sau.

‘Thiếu Nhi Thánh Thể nhiệm mầu
Tôn sùng rước lễ nhà chầu viếng thăm

Nội dung ca dao: Giáo huấn tinh thần đạo đức tôn sùng Mình Thánh Chúa Giêsu cho các cháu thiếu nhi Công giáo.

Các thầy đọc tiếng La Tinh
Các cô con gái thưa kinh dịu dàng

Nội dung ca dao: Nói lên vẻ đẹp của phụng vụ Công giáo.

Để dễ nhớ các ngày lễ trong năm, dựa vào bài ca dao “Tháng giêng là tháng ăn chơi. Tháng hai trồng đậu, tháng ba trồng cà...”, người Công giáo vùng Bùi Chu – Phát Diệm có bài ca dao 12 tháng lịch phụng vụ như sau (Bài ca dao này sử dụng các tháng âm lịch để tính ngày lễ. Đây là điều hiếm.):

Tháng giêng ăn tết ở nhà
Tháng hai ngắm đứng, tháng Ba ra mùa,
Tháng Tư tập trống rước hoa,
Kết đèn làm trạm chầu giờ tháng Năm.
Tháng Sáu kiệu ảnh Lái tim
Tháng Bảy chung tiền đi lễ Phú Nhai,
Tháng Tám đọc ngắm Văn Côi,
Trở về tháng Chín xem nơi chồng mồ.
Tháng Mười mua giấy sao tua
Trở về Một Chạp sang mùa ăn chay.

Giải thích một số từ ngữ Công giáo:

Ảnh Lái tim: Lái tim là từ cũ của Trái tim. Ảnh/tượng Trái tim là cách gọi vắn gọn của ảnh/tượng Trái tim Chúa Giêsu. Tháng Sáu trong lịch Công giáo là tháng kính Trái tim Chúa Giêsu nên các xứ họ đạo có các cử hành kiệu rước tượng/ảnh Trái tim Chúa để tôn kính.

Cha (天 主父, Deus Pater, God the Father, Dieu-Père): cách gọi tắt của “Chúa Cha” là danh của Ngôi thứ nhất trong Ba Ngôi Thiên Chúa.

Trong dân Israen, Thiên Chúa được gọi là “Cha”, vì là đấng tạo dựng trần gian (x. Đnl 32,6). Ngài cũng được gọi là cha của vua Israen (x. 2Sm 7,14) và của người nghèo (x. Tv 68,6).

“Chúa Giêsu đã mạc khải Thiên Chúa là “Cha” theo một nghĩa chưa từng có: Ngài là Cha (...) trong tương quan với Con duy nhất của Ngài, Đấng từ đời đời là Con trong tương quan với Cha của Người” (3: số 240).

Chầu giờ: Cách gọi quen của Giờ Chầu, tức một phiên (không hẳn là một tiếng) tôn kính Thánh Thể của các tín hữu. Làm trạm chầu giờ là việc làm các trạm trên đường đi kiệu trong ngày lễ Sangti tôn kính Thánh thể.

Chồng mồ: Trong nghi thức nguyện giỗ cầu hồn cho người qua đời, ở một số giáo xứ xưa kia có làm giả áo quan, nhà mồ đặt giữa nhà thờ để người giáo dân có lòng thương cảm, sốt sắng hơn khi cầu nguyện.

Mùa ăn chay: Thường gọi là Mùa Chay, khoảng thời gian phụng vụ kéo dài 40 ngày từ thứ Tư lễ Tro đến trước lễ Phục Sinh. Đây là mùa cầu nguyện, sám hối để các tín hữu dọn mình mừng lễ Chúa sống lại cách hiệu quả hơn.

Ngắm đứng: Nghi thức tôn giáo của riêng Công giáo tại Việt Nam do linh mục Alexandre de Rhodes khởi xướng từ đầu thế kỉ XVII, để giúp người giáo dân có tâm tình hơn khi đọc ôn lại cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu.

Ngắm Văn Côi: Cách đọc kinh Văn Côi (hoa hồng) kính Đức mẹ theo cung ngâm.

Nhà Chầu: Nơi đặt Bánh Thánh (Mình Thánh Chúa Giêsu) để giáo dân tôn kính. Thường thiết kế như một tủ nhỏ.

Phú Nhai: Tên một xứ đạo lớn ở giáo phận Bùi Chu, thuộc huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Ngày 8 tháng 8 dương lịch (nếu tính âm lịch thì thường rơi vào tháng Bảy) là lễ kính thánh Đa Minh, quen gọi là lễ Đầu Dòng, một lễ được các địa phận Dòng tổ chức trọng thể, nhất là ở nhà thờ Phú Nhai, tập trung nhiều giáo sĩ và giáo dân tham dự.

Ra mùa: Nói tắt của “Ra mùa Chay” hay “Ra mùa Thương Khó”, tức lễ Phục sinh mừng Chúa Giêsu sống lại, kết thúc mùa Chay (hay mùa Thương Khó).

Rước hoa: Lễ nghi kiệu rước tôn kính Đức Mẹ Maria tổ chức đặc biệt vào tháng Năm dương lịch (nếu tính âm lịch thì thường rơi vào tháng Tư). Gọi là rước hoa, kiệu hoa hay tháng Hoa vì các cuộc kiệu rước trong tháng này điểm đặc trưng nổi bật là việc trang hoàng nhiều hoa lá, nhưng thực chất vẫn là rước và kiệu Đức Mẹ.

Rước lễ: Nghi thức Công giáo chỉ việc các tín đồ cung kính đón nhận và ăn Bánh Thánh (hiểu là Thân thể Chúa Kitô).

Thầy: Từ xưng gọi dành cho những người đi tu phục vụ Giáo Hội ở nhiều giai đoạn, thứ bậc khác nhau, trước khi làm linh mục. Sau khi làm linh mục thì gọi là cha. Chẳng hạn: Thầy già, thầy dòng, thầy La Tinh, thầy lý đoán, thầy triết, thầy thần, thày giảng, thầy phó tế...

Thiếu nhi Thánh Thể: Tên gọi của một tổ chức mang tính chất rèn luyện đời sống đạo đức, nhất là gắn liền với việc tôn sùng Thánh Thể Chúa Giêsu, cho các thiếu nhi Công giáo.

Thưa kinh: Đọc kinh ở phần đáp. Một số kinh hoặc lễ nghi Công giáo được chia làm hai phần: phần Xướng và phần Đáp, được đọc theo lối: người chủ sự đọc phần Xướng, sau đó cả cộng đoàn thưa phần Đáp; hoặc hai phần này chia ra hai bè nam – nữ.

5. Ca dao, tục ngữ về đời sống xã hội, cách đối nhân xử thế

Thứ nhất hết linh hồn hết ý
Cùng hết lòng yêu quý Chúa Trời
Thứ nhì cư xử trên đời
Thương yêu giúp đỡ những người cận lân

Nội dung ca dao: Nhắc người giáo dân sống kính Chúa, yêu người như lời Chúa Giêsu nói: “Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi và hết trí khôn ngươi! Đó là giới răn lớn, giới răn đệ nhất. Thứ đến cũng giống như điều ấy: Ngươi phải yêu mến đồng loại ngươi như chính mình ngươi. Toàn thể lề luật cùng các tiên tri đều quy về hai giới răn ấy.” (Mt 22,37-40).

Anh em cùng một đức tin
Hãy vì danh Chúa dằn mình nhịn nhau
Làm gì đừng để Chúa đau
Nữa mai họp mặt, nói sao với Ngài

Nội dung ca dao: Nhắc nhở các giáo hữu là người đồng đạo, hãy biết nhường nhịn nhau để xây dựng đời sống đoàn kết.

Người dại làm lại lỗi xưa
Như chó liếm lại chỗ vừa mửa ra

Nội dung ca dao: Ngựa quen đường cũ, người xấu thì khó bỏ đường tà, dễ dàng quay lại.

Câu ca dao lấy ý từ sách Châm ngôn trong phần Kinh Thánh Cựu Ước: “Như con chó trở lại đống nó vừa mửa, cũng vậy, kẻ ngu xuẩn trở về với sự điên dại của nó.” (Cn 26,11).

Lạc đà qua dễ lỗ kim
Hơn nhà trọc phú đi tìm nước Cha

Nội dung ca dao: Của cải vật chất, nếu không biết chia sẻ sẽ là một rào cản cho đời sống tâm linh.

Câu ca dao này xuất phát từ chương 19 sách Tin Mừng Mátthêu: Có chàng thanh niên nhà giàu đến tìm Đức Giêsu hỏi về lẽ sống khôn ngoan để đạt được Nước Trời. Sau khi Chúa Giêsu hỏi và biết anh giữ đời sống luân lí chu toàn thì Ngài yêu cầu anh: “Anh hãy về bán hết tài sản chia cho người nghèo và theo Ta”. Tức thì anh buồn rầu bỏ đi. Tác giả Mát-thêu chú giải lí do anh bỏ đi vì anh có nhiều của cải nên anh tiếc không bán đi chia cho người nghèo. Sau đó, Chúa Giêsu buồn rầu quay lại nói với các tông đồ: “Người giàu vào nước Thiên Chúa khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim” (bởi vì họ chọn của cải hơn là chọn Thiên Chúa và người nghèo).

Mau nghe chậm nói ai ơi
Lại thêm chậm giận, Chúa Trời mới vui.
Nội dung ca dao: Nhắc nhở đức từ tốn, khiêm nhường, hiền lành.
Cuộc đời hoa cỏ không dài
Hôm nay tươi tắn, ngày mai vô lò
Còn có áo đẹp Chúa lo
Con người lọ phải sầu lo hình hài.

Nội dung ca dao: Nhắc nhở lòng an nhiên tự tại, đừng quá lo lắng về hình hài bên ngoài, vì như hoa cỏ ngắn ngủi nay còn mai mất mà Thiên Chúa còn cho nó tươi đẹp.

Thức khuya dậy sớm dãi dầu
Ăn bánh lao khổ cơ cầu lắm khi
Chúa ban dầu có ở nghì
Ngủ thì yên giấc, ăn gì cũng ngon.

Nội dung ca dao: Gần giống với nội dung các câu ca dao trên, nói về lòng tin cậy phó thác vào ơn Chúa quan phòng.

Chúa Trời đã có điều răn
Làm con hiếu kính song thân trọn tình
Suốt đời được hưởng phước lành
Đất đai, cơ nghiệp, tiền trình không lo.

Nội dung ca dao: Dạy về lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ người trên, đây không chỉ là điều răn buộc nhưng còn là công việc mang lại nhiều ơn phước.

Nước mà chia rẽ sao yên
Nhà mà chia rẽ sẽ nghiêng ngửa nhà.

Nội dung ca dao: Câu ca dao lấy ý từ lời của Chúa Giêsu trong sách Phúc âm theo thánh Marcô: “Nước nào chia bè chống lại nhau, thì không thể vững được. và nhà nào chia bè chống lại nhau, thì nhà ấy không thể vững được.” (Mc 3, 24-25).

Giải thích một số từ ngữ Công giáo:

Điều răn: Khoản, luật của Thiên Chúa buộc tín hữu phải thi hành.

Đức tin (信 徳, Fides, Faith, Foi): Đức: ơn; Tin: đón nhận, nghe theo. Đức tin: ơn đón nhận, vâng theo.

Theo giáo lý: Đức tin là nhân đức siêu nhân Đức Chúa Trời ban cho ta để ta tin kính Đức Chúa Trời và tin những điều Hội Thánh dạy.

Linh hồn (靈 魂, Anima, Soul, Âme): Linh: phần thiêng liêng; Hồn: sự sống. Linh hồn: sự sống thiêng liêng của con người.

Linh hồn con người được Thiên Chúa tạo dựng trực tiếp (x. St 2,7) chứ không do cha mẹ sinh ra. Khi còn sống tại thế, linh hồn và thân xác kết hợp mật thiết với nhau như một ngôi vị hay chủ thể duy nhất. Khi chết linh hồn sẽ tách rời thể xác, nhưng sẽ tái hợp với nhau trong ngày tận thế theo một dạng thức mới như Đức Giêsu phục sinh (3: số 365, 366).

Nước Cha hay Nước Thiên Chúa (天 主國, Regnum Dei, Kingdom of God, Royaume de Dieu): 1. Tình trạng đời sống của các tín hữu tại trần gian nhưng trong ân sủng của Thiên Chúa: mến Chúa yêu người cách trọn vẹn. 2. Nước thiên đàng ở đời sau.

Chúa Trời: x. Đức Chúa Trời (đã giải thích ở trên).

Ngoài ra còn có các câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao về đặc điểm vùng miền, như: Cha Phú Nhai, khoai chợ Chùa (Phú Nhai là tên một xứ đạo lớn Xuân Trường, Nam Định quê hương của nhiều vị giám mục và linh mục đang phục vụ trong Giáo Hội tại Việt Nam; chợ Chùa thuộc huyện Nam Trực, Nam Định là nơi có khoai ngon nổi tiếng).

Hay nói về tâm trạng riêng:
Em như một đóa hoa đào
Mẹ cha muốn phước bắt vào nhà tu
Trăm nghìn lạy Chúa Giêsu
Nhà tu đừng hóa nhà tù giam em.

Hầu hết các cha mẹ người Công giáo đạo đức đều ước mong con cái của mình đi tu tạo phước. Tuy nhiên, không phải ai cũng có “ơn gọi” đi tu nên mới có tiếng than vãn đầy tâm trạng nhưng cũng có chút hài hước của một cô gái bị “ép” đi tu như trên.

Các câu ca dao trên cũng chứa các từ ngữ Công giáo như: “Cha” (từ gọi linh mục), “nhà tu” (nhà dòng), “Chúa Giêsu”.

6. Kết luận

Đối với người Công giáo, Đạo không phải một cái gì cao siêu vượt lên sinh hoạt đời thường, nhưng đi vào trong sinh hoạt đời thường, làm cho đời thường bớt dần tính “thường” hơn. Chính vì thế, cho dù khi du nhập, Việt Nam đã thấm nhiễm các yếu tố Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo, thì Công giáo vẫn ghi lại những dấu ấn riêng của mình góp phần làm cho văn hóa nước ta thêm phong phú. Các từ ngữ Công giáo trong một số tục ngữ ca dao có mặt trong nhiều lãnh vực đời sống mà bài báo nghiên cứu là một phần khẳng định cho nhận định đó.

Hướng nghiên cứu này có thể được mở rộng ra nhiều lãnh vực khác của ngôn ngữ Việt Nam qua các tác phẩm văn học viết như: tiểu thuyết, truyện ngắn, thi ca. Tác giả mong rằng có dịp tiếp tục đề tài để trình bày về sự tiếp ứng văn hóa Việt và Công giáo biểu thị qua ngôn ngữ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Đình Bảng (2010), Văn học Công giáo Việt Nam - những chặng đường, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

2. Nguyễn Thị Thúy Giang (2013), Mối quan hệ giữa từ ngữ nhà Phật và từ ngữ đời sống trong tiếng Việt (trường hợp các từ Tâm, Nhân, Duyên), Luận văn Thạc sĩ, Đại học Hải Phòng.

3. Hội đồng giám mục Việt Nam (2010), Sách giáo lý của Giáo hội Công giáo, Nxb. Tôn giáo.

4. Vũ Văn Khương (2001), “Mấy nhận xét khi đọc cuốn Gốc và nghĩa từ Việt thông dụng”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 4.2001.

5. Vũ Văn Khương (2005), “Thử tìm hiểu nguồn gốc, ý nghĩa của mấy danh từ và tập tục trong mùa Vọng”, Tập san số 1 - K.2004, Đại chủng viện thánh Giuse Hà Nội.

6. Vũ Văn Khương (2006), “Giá trị của phụng vụ trong đời sống tín hữu”, Tập san Hiệp thông Hải Phòng, số 7 – 2006.

7. Vũ Văn Khương (2006), “Mùa Chay, thử tìm hiểu gốc và nghĩa của mấy từ ngữ liên quan”, Tập san số 2 - khóa K.2004, Đại chủng viện thánh Giuse Hà Nội.

8. Vũ Văn Khương - Nguyễn Công Đức (2015), “Ngôn ngữ và tôn giáo – các định hướng nghiên cứu”, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, số 5, Hà Nội, tr.84 – 93

9. Vũ Văn Khương (2017), Đặc điểm vay mượn của lớp từ ngữ Công giáo tại Việt Nam (qua khảo sát các bản kinh nguyện của các Giáo phận Dòng tại Việt Nam)”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 9. Hà Nội, tr.36 – 41

10. Vũ Văn Khương (2018), Từ ngữ Công giáo trong một số tục ngữ, ca dao tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 7, Hà Nội, tr.41 – 46

11. Vũ Văn Khương (2018), Sự chuyển hóa của lớp từ ngữ Công giáo vào tiếng Việt toàn dân, Tạp chí Ngôn ngữ, số 10, Hà Nội, tr.52 – 60

12. Vũ Văn Khương (2020), Từ ngữ Công giáo trong các bản kinh nguyện của các Giáo phận Dòng tại Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Học viện Khoa học xã hội

13. Vũ Văn Khương (2021), Từ ngữ Công giáo gốc Ấn Âu có cấu tạo Hán Việt, Hội thảo Hán Nôm toàn quốc năm 2021, Viện Hán Nôm.

14. Lê Thị Lâm (2019), Đặc điểm từ ngữ nhà Phật trong tiếng Việt, Luận án tiến sĩ ngôn ngữ, Học viện KHXH, Hà Nội.

15. Đinh Kiều Nga, Ảnh hưởng của Công giáo với nền văn hóa Việt Nam, (đăng trên: http://btgcp.gov.vn)

16. Thanh Nghị (1951), Việt Nam Tân từ điển, NXB. Thời Thế, Sài Gòn

17. Chương Thâu, Vài ý kiến về Công giáo với nền văn hóa Việt Nam, Tạp chí Sông Hương, số 142, tháng 12 - 2000.

18. Nguyễn Huy Thông , Những đóng góp của đạo Công giáo đối với văn hóa Việt, đăng trên: http://www.conggiaovietnam.net

19. Nguyễn Thế Thuấn (1976), Kinh Thánh Cựu Tân Ước, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, HCM.

20. Stêphanô Huỳnh Trụ (2012), Tìm hiểu Từ vựng Công giáo, Sách lưu hành nội bộ

21. Hà Huy Tú (2002), Tìm Hiểu nền văn hóa Thiên Chúa giáo, Nxb. Văn hóa-Thông tin, Hà Nội.

Nguồn: gphaiphong.org (29.11.2021)

[1] Thứ tự trong ngoặc đơn: tiếng Hán, La Tinh, Anh, Pháp.

(WHĐ)