Thứ Sáu, 25 tháng 6, 2010

LẼ SỐNG 25.6

25 Tháng Sáu
Lau Chùi Làm Gì?

Trong những mẩu chuyện giáo lý ngắn, Ðức Gioan Phaolô I có thuật lại câu chuyện sau đây: "Những người xem thường việc năng đi xưng tội nhắc tôi nhớ đến anh giúp việc của ông Jonathan Swift. Một lần kia, sau khi ngủ đêm trong một quán trọ, ông Swift bảo người giúp việc đem cho ông đôi giày ống mà ông đã mang hôm qua. Khi thấy đôi giày còn dính đầy bụi đất của cuộc hành trình vất vả xuyên qua những cánh đồng lầy lội, ông Swift nhíu mày tỏ vẻ khó chịu và bảo anh giúp việc: "Tại sao anh lại không lau chùi đôi giày cho sạch sẽ?".

Thấy chủ bất bình và xẵng giọng, anh giúp việc hơi áy náy nhưng cũng gãi đầu, ấp úng thưa: "Tôi nghĩ là... lau chùi cũng không ích lợi gì. Vì hôm nay, sau khi ông đi vài dặm đường, đôi giày lại bị dơ bẩn trở lại".

Nghe người giúp việc biện luận như thế, ông Swift giả vờ gật đầu đồng ý rồi bảo người giúp việc: "Anh cho thắng yên ngựa, chúng ta khởi hành càng sớm càng tốt kẻo muộn".

Một lúc sau, mọi việc đã được thu xếp xong và ông Swift ra lệnh lên đường. Nhưng người giúp việc chạy vội đến kéo nài: "Thưa ông, chúng ta không thể lên đường ngay được vì tôi chưa ăn sáng".

Ông Swift vừa leo lên ngựa vừa bảo: "Ăn uống làm gì cho uổng công vì sau vài dặm đường, dạ dày anh lại cồn cào kêu đói".

Cũng thế, có nhiều người bảo: năng lãnh nhận bí tích Giải Tội có ích lợi gì. Vì thông thường sau khi xưng tội, linh hồn chúng ta lại bị dơ bẩn trở lại vì những tội tái phạm. Có lẽ họ cũng có lý. Nhưng giữ linh hồn thanh sạch một thời gian, dù ngắn ngủi, cũng là một việc nên làm. Lại nữa, những người hiểu đúng nghĩa của phép Giải Tội và Xưng Tội đúng cách sẽ được nghiệm thấy là phép Giải Tội không những rửa sạch mọi tì ố của tội lỗi, nhưng còn hiệu lực giúp chúng ta tránh tái phạm những lỗi lầm thường vấp ngã với mục đích củng cố tình thân hữu của mình với Ðức Giêsu và sống trọn tình hiếu thảo Cha con đối với Thiên Chúa.

Không ai trong chúng ta dùng cơm xong lại thu dọn ngay những chén đĩa, nồi niêu đã dùng vào sóng chén, viện cớ là: rửa làm gì cho uổng công, đến bữa an sau chúng lại dơ bẩn trở lại.

Cũng không ai bảo: giặt quần áo hay tắm gội làm gì cho hoài công, tốn nước. Một thời gian sau thân thể và quần áo lại bị dơ bẩn trở lại.

Vâng, Ðức Gioan Phaolô I dạy chúng ta: hãy năng đi xưng tội, dù biết rằng con người yếu đuối hay tái phạm những lỗi lầm mình đã vấp ngã. Và trong lúc lãnh nhiệm phép Giải Tội, hãy nhớ lời Ðức Giêsu bảo người phụ nữ ngoại tình: "Này chị, những kẻ tố cáo chị đâu cả rồi, không ai lên án chị ư? Ta cũng vậy, Ta không lên án chị. Hãy về và từ nay, đừng phạm tội nữa".


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Năm, 24 tháng 6, 2010

CHÚC MỪNG



GIÁO XỨ THUẬN PHÁT
Hân Hoan Chúc Mừng Bổn Mạng


Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn
Tổng Giám Mục Giáo Phận Saigon

Cha Gioan Baotixita Huỳnh Công Minh
Tổng Đại Diện Giáo Phận Saigon

Cha Gioan Baotixita Nguyễn Văn Đán
Bề Trên Hội Xuân Bích
Giám Đốc Đại Chủng viện Huế

Nguyện xin Thánh Bổn Mạng khẩn cầu Chúa ban cho Đức Hồng Y và Quý Cha ngàn muôn ơn phúc xác hồn.

LẼ SỐNG 24.6

24 Tháng Sáu
Cái Bóng

Có một người khờ nọ muốn thoát khỏi cái bóng của mình... Nhưng càng trốn thì cái bóng càng đeo đuổi anh. Anh lăn lộn trên đất, anh đâm xuống nước, dù anh đi đâu, dù anh làm gì, cái bóng của anh vẫn còn đó.

Có một người khôn ngoan nghe chuyện mới đến cố vấn cho anh khờ. Người khôn ngoan ấy nói như sau: "Ðể thoát khỏi cái bóng của anh, anh chỉ cần đến đứng dưới bóng của một cây lớn".

Có nép mình dưới bóng cây Thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta mới có thể thoát được cái bóng của không biết bao nhiêu phù phiếm, hư ảo trong cuộc sống của chúng ta.

Hôm nay Giáo Hội mừng kính trọng thể ngày sinh của một con người đã từng nép bóng dưới cây Thập giá của Chúa Giêsu. Con người ấy chính là Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Ðấng Cứu Thế, nhưng đồng thời cũng là người luôn nép bóng trong Chúa Giêsu.

Thánh Gioan đã tóm tắt tất cả cuộc sống của Ngài trong câu nói: "Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại". Dưới cái nhìn của con người, như Chúa Giêsu cũng đã có lần khen tặng, Gioan là con người cao cả nhất được sinh ra từ người nữ. Ngày sinh của Ngài được đánh dấu bằng những biến cố khác thường. Sự chào đời của Ngài đã mang lại niềm vui và hy vọng cho mọi người xung quanh. Vị tiên tri được xem là là cao cả nhất trong lịch sử Isreal ấy đã lôi kéo được một đám đông mà chưa từng có vị tiên tri nào đã quy tụ được... Thế nhưng, cuối cùng, để hoàn tất sứ mệnh của mình, con người ấy đã nhỏ lại và mất hẳn trong kiếp tù đày và một cái chết bỉ ổi.

Gioan nhỏ lại trong cái chết ấy, nhưng Chúa Giêsu lớn lên trong Mầu Nhiệm của Ngài, bởi vì cái chết của Gioan là một loan báo về chính cái chết của Chúa Giêsu... Nhưng cũng chỉ trong cái chết của Chúa Giêsu, cái chết của Gioan mới có ý nghĩa... Trong bóng thập giá của Chúa Giêsu, Gioan đã tìm lại được chính mình.

Chúng ta cầu xin điều gì trong ngày sinh của thánh Gioan Tẩy Giả nếu không phải là bước đi trong từng bước nhỏ lại của Ngài. Trong từng bước ấy, chúng ta hãy đặt mình dưới bóng vĩ đại của Thập giá Chúa Giêsu. Chỉ trong chiếc bóng vĩ đại ấy của Thập giá Chúa Giêsu, những nghịch cảnh, những đau thương, những nghi ngờ và ngay cả những cái chết từng ngày sẽ mang lấy ý nghĩa. Và ý nghĩa ấy là gì nếu không phải là sự lớn lên của Ðức Kitô trong chúng ta?

Chúng ta có nhỏ lại trong cái nhìn hẹp hòi ích kỷ của chúng ta, chúng ta có nhỏ lại trong những ham muốn ganh tỵ bất chính của chúng ta, chúng ta có nhỏ lại trong hận thù nhỏ nhen của chúng ta, thì lúc đó Ðức Kitô mới thực sự lớn lên trong chúng ta.


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Tư, 23 tháng 6, 2010

LẼ SỐNG 23.6

23 Tháng Sáu
Khối Ðá Cẩm Thạch

Một lần kia các phụ nữ giàu có sinh sống tại thành phố Firenze, miền bắc nước Italia nảy ra sáng kiến góp một khối đá cẩm thạch lớn và thuê một nhà điêu khắc tạc thành bức tượng nào tùy ý, mà ông nghĩ là dân chúng sẽ ưa thích để làm quà cho thành phố.

Nhưng có lẽ đây không phải là một nhà điêu khắc tượng có biệt tài hay vì khối đá bị sẻ không đúng theo quy luật điêu khắc, nên sau khi nghiên cứu một thời gian, ông ta không biết dùng khối đá để tạc tượng gì nên đành bỏ cuộc với lời quả quyết: "Ðây là một khối đá vô dụng".

Kể từ ngày ấy, khối đá cẩm thạch quý giá bị bỏ ngoài trời mặc cho mưa sa tuyết phủ. Một nhà điêu khắc khác cũng được mời đến xem khối đá, nhưng sau khi nhìn ngắm và có người thử phác họa vài nét nháp trên giấy, tất cả đều bỏ đi với cùng một ý kiến của nhà khắc tượng đầu tiên.

Cho đến một ngày kia, Michelangelo, nhà điêu khắc và kiến trúc thời danh có dịp ghé thăm thành phố nhà. Không rõ có ai lưu ý ông về khối đá hay ông tình cờ khám phá ra, nhưng ông cảm thấy muốn tạc một bức tượng được tạc từ khối đá mà ai cũng cho là vô dụng.

Ông đo mọi kích thước. Ông bỏ hàng ngày để nhìn ngắm khối đá để tìm hứng. Bỗng chốc ông thấy thật rõ ràng một bức tượng mà ông xác tín là dân chúng thành Firenze sẽ rất mến mộ. Ông nhìn thấy hình chàng thanh niên David vai mang cái ná bắn đá, tay cầm những hòn sỏi, trong tư thế sẵn sàng ra chiến đấu với tên khổng lồ Goliát.

Những nhà khắc tượng khác đồng ý cho rằng: đây là một khối đá vô dụng.

Nhưng dưới cặp mắt của Michelangelo khối đá ấy đã mang hình ảnh chàng thanh niên David, vị anh hùng dân tộc Do Thái và lập tức ông lấy dụng cụ bắt tay vào việc, mặc cho những người tạc tượng khác lắc đầu mỉm cười ngụ ý nói rằng: đây là thật công dã tràng.

Nhưng Michelangelo vẫn miệt mài làm việc, gác ngoài tai những tiếng thị phi. Rồi cuối cùng, mỗi nhát búa, mỗi cái đục đẽo làm nổi hẳn một bức tượng chàng David hiên ngang, oanh liệt, mà trải qua bao thế kỷ vẫn làm say mê hàng vạn du khách, trố mắt đứng nhìn một kỳ công tuyệt tác của nghệ thuật điêu khắc.

Không ai trong chúng ta là khối đá vô dụng khi được chọn để tạc thành những bức tượng tín hữu Kitô sống động dưới những nhát búa, nét đục của Chúa Giêsu.

Lời Chúa và sự hiện diện của Ngài muốn tạo chúng ta thành những Kitô hữu xứng với danh gọi, nghĩa là giống Chúa Giêsu.


Trích sách Lẽ Sống

ĐỌC BÁO VIETNAMNET

Việt Nam và Vatican sắp nhóm họp
Cập nhật lúc 08:29, Thứ Ba, 22/06/2010 (GMT+7),

- Trong hai ngày 23 và 24/6 tới tại Vatican, Việt Nam và Vatican sẽ tiến hành cuộc họp vòng 2 Nhóm công tác hỗn hợp Việt Nam - Vatican.


Việt Nam sẵn sàng thúc đẩy quan hệ với Tòa thánh trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Ảnh: VOV
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Phương Nga cho hay theo thỏa thuận giữa hai bên đạt được tại cuộc họp vòng 1 Nhóm công tác hỗn hợp Việt Nam - Vatican tại Hà Nội tháng 02/2009, cuộc họp vòng 2 của Nhóm sẽ được tổ chức tại Vatican nhằm tiếp tục thảo luận và thực hiện các nội dung đã đưa ra.
Đoàn Việt Nam do Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Quốc Cường làm Trưởng đoàn. Đoàn Tòa thánh Vatican do Thứ trưởng Ngoại giao Ettore Balestrero làm Trưởng đoàn.
Tại cuộc họp vòng 1 hồi tháng 02 năm ngoái, Nhóm công tác hỗn hợp Việt Nam – Vatican đã tiến hành họp dưới sự chủ trì của Thứ trưởng Nguyễn Quốc Cường và Thứ trưởng Ngoại giao Tòa thánh, Ðức ông Pietro Parolin.
Cuối năm ngoái, nhân chuyến thăm Italia, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã đến thăm Vatican và có cuộc gặp với Giáo hoàng Benedict XVI, Hồng y Tarcisio Bertone và Thủ tướng Vatican.
Trong các cuộc gặp, Chủ tịch nước khẳng định Việt Nam sẵn sàng thúc đẩy quan hệ với Tòa thánh trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, góp phần tích cực cho hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới. Chủ tịch nước cũng tin tưởng rằng, với thiện chí và quyết tâm của hai bên, quan hệ giữa Việt Nam và Tòa thánh Vatican sẽ tiếp tục phát triển phù hợp với mong muốn của hai bên.
Trước đó, việc thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức giữa Việt Nam và Vatican cũng đã được đề cập trong cuộc gặp giữa Giáo hoàng Benedict XVI và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Vatican tháng 1 năm 2007.
X.Linh
Báo VietnamNet ngày 22-6-2010.

Thứ Ba, 22 tháng 6, 2010

LẼ SỐNG 22.6

22 Tháng Sáu
Romeo Và Juliet

Một trong các vở tuồng bất hủ trên sân khấu kịch nghệ quốc tế phải kể là vở kịch mang tựa đề "Romeo và Juliet" của nhà văn hào trứ danh người Anh, ông William Shakespeare. Vở kịch này được sáng tác vào năm 1595, nhưng mãi cho đến nay, khi vở kịch được phổ nhạc, được các ca sĩ nổi tiếng trình diễn, khán giả vẫn nối đuôi nhau chờ mua vé để vào theo dõi một câu chuyện tình cảm động giữa hai thanh niên nam nữ yêu nhau thắm thiết, nhưng đường tình duyên bị trắc trở không thể tiến đến hôn nhân, vì chàng và nàng thuộc về hai gia đình có mối thù truyền kiếp với nhau trong bối cảnh xã hội mang nặng đầu óc nuôi oán, báo thù tại Italia thời trung cổ.

Sau khi nàng Juliet đem câu chuyện tình ngang trái tỏ lộ cùng một vị linh mục và cho ngài biết ý định sẽ cùng với Romeo thoát ly gia đình để tìm đến một phương trời xa lạ xây tổ uyên ương, vị linh mục đề nghị nàng dùng phương thế uống một thứ thuốc mê để giả chết. Sau đó ngài sẽ cứu sống nàng và giao cho Romeo đem nàng đi. Kế hoạch này được giữ bí mật đến nỗi chính chàng Romeo cũng không hay biết. Khi thấy người yêu đã vì mình dùng độc dược quyên sinh, chàng Romeo cũng dùng gươm tự sát để đáp lại mối tình tuyệt vọng của người yêu. Khi thuốc mê đã hết hiệu nghiệm, nàng Juliet tỉnh dậy thấy người yêu đang thoi thóp bên vũng máu đào: tình yêu kêu gọi tình yêu, nàng cũng dùng gươm lết liễu phận bạc để cùng chết với chàng.

Hình như những câu chuyện tình thương tâm trong tuồng kịch hay tiểu thuyết nào cũng kết thúc bằng trắc trở, chia ly, chết chóc. Dù bi ai, nhưng các câu chuyện ấy cũng nói lên một phần nào sự thật. Ðó có lẽ là lý do tại sao trong các thiệp hồng báo tin hôn lễ, các đôi trai gái tính chuyện trăm năm thường chọn và cho in câu: "Tình yêu mạnh hơn sự chết".

Trong các cuộc giao tế thường ngày giữa người với người hoặc trong mối quan hệ láng giềng, bạn bè, kể cả cha mẹ, con cái, anh chị em trong gia đình hay giữa tình thân, vợ chồng, chúng ta cần có những dấu chỉ biểu lộ ra bên ngoài để diễn tả tâm tình yêu mến chất chứa bên trong: Từ những dấu chỉ đơn sơ, thi vị "yêu nhau cởi áo cho nhau" đến chỗ hy sinh cả cuộc đời tận tụy, làm lụng vất vả, gánh chịu những nhọc nhằn, chịu đựng tha thứ cho nhau "Một câu nhịn, chín câu lành" đối với những người thân thương trong gia đình.


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Hai, 21 tháng 6, 2010

LẼ SỐNG 21.6

21 Tháng Sáu
Nhân Danh Thiên Chúa Ba Ngôi

Christophoro Columbo, người đã khám phá ra Châu Mỹ vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ 15, có lòng sùng kính Chúa Ba Ngôi cách đặc biệt. Trước mọi hoạt động, ông đều kêu cầu Chúa Ba Ngôi cũng như ông luôn khởi đầu những gì mình viết bằng dòng chữ: "Nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh".


Lần kia, khi Columbo trình bày về thuyết "Trái đất tròn" trước một nhóm học giả được gọi là Hội Ðồng Salamanca, một tổ chức quy tụ những nhà khoa học và thần học danh tiếng nhất thời bấy giờ, ông đã khởi đầu như sau: "Hôm nay tôi được hân hạnh đứng trước mặt các ngài nhân danh Chúa Ba Ngôi cực thánh, vì hoàng đế đã truyền lệnh cho tôi đệ trình lên sự khôn ngoan của quý vị một dự án mà tôi xác tín là Chúa Thánh Thần Ba Ngôi Thiên Chúa đã gợi hứng cho tôi".

Trong cuộc hành trình thứ ba của ông khởi hành năm 1498, Columbo đã thề hứa sẽ hiến dâng cho Chúa Ba Ngôi phần đất nào ông khám phá ra đầu tiên, vì thế hòn đảo ông đặt chân xuống đầu tiên trong cuộc hành trình thám hiểm Tân thế giới ấy cho đến nay vẫn được gọi là "Trinidad", tức là Chúa Ba Ngôi.

Trong suốt cuộc đời, người Kitô hữu chúng ta luôn kinh nghiệm sự gần gũi của Ba Ngôi Thiên Chúa: lúc vừa mở mắt chào đời, chúng ta được nhận lãnh Phép Rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi. Trong suốt ngày sống, chúng ta thường ghi dấu thánh giá trên mình với lời chúc tụng nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, cũng như mỗi lần chúng ta dùng bữa hay khi khởi đầu mọi sinh hoạt.

Cộng vào đấy mỗi lần chúng ta vấp ngã và khiêm nhượng đi xưng thú những lỗi lầm trong tòa cáo giải, chúng ta được giao hòa lại với Thiên Chúa và cộng đoàn nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi và cũng nhân danh Người các đôi trai gái yêu nhau được nối kết để chung sống đời hôn nhân.

Rồi cả các bệnh nhân cũng được ban ơn sức mạnh nhờ danh Thiên Chúa Ba Ngôi để khi nhắm mắt xuôi tay, các Kitô hữu chúng ta cũng được tiễn đưa vào cuộc sống đời sau và được chôn cất nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.

Mặt khác, Chúa Ba Ngôi cũng là trung tâm và mục đích mọi hoạt động của những kẻ tin kính Người. Bởi thế chúng ta thường kết thúc nhiều Kinh và những sinh hoạt bằng câu: "Sáng danh Ðức Chúa Cha và Ðức Chúa Con và Ðức Chúa Thánh Thần".

Trích sách Lẽ Sống

Chủ Nhật, 20 tháng 6, 2010

BÓNG ĐÁ


Thể thao bóng đá và đời sống đức tin tôn giáo
VietCatholic News (19 Jun 2010 08:55)

Bóng đá ngày nay trở thành môn thể thao phổ thông khắp nơi trên thế giới. Và qua môn thể thao này như trở nên niềm tự hào hãnh diện có tiếng tăm không chỉ cho cá nhân cầu thủ có cặp giò vàng đá banh nổi tiếng, nhưng còn cho đoàn thể xã hội địa phương tỉnh thành, và cho cả quốc gia đất nước châu lục nữa.

Như nói đến Âu châu, đến Nam Mỹ châu, người ta nghĩ ngay đến môn thể thao bóng đá. Vì đó là một trong những đặc điểm nổi bật của hai châu lục này.

Không dám đem Tôn giáo, một lãnh vực tinh thần cao cả, ra so sánh với môn chơi thể thao bóng đá. Nhưng quan sát nếp sinh hoạt hai lãnh vực này, ta cũng có thể thử tìm ra xem có được một ít điểm tương đồng cũng như không tương đồng. Vì cả hai đều có liên quan đến con người cả phần thân xác lẫn tinh thần.

Những trận cầu thi đấu bóng đá thế giới đang diễn ra ở đất nước Nam Phi lần thứ 19. từ ngày 11.06.2010 giúp chúng ta cơ hội suy tư về sự tương quan giữa bóng đá và đời sống đức tin Công giáo.

Trong sinh hoạt cả hai lãnh vực đều có những Nghi thức. Lẽ tất nhiên, không phải cả hai có nghi thức giống nhau và số lượng như nhau. Không, mỗi lãnh vực có nghi thức riêng và nhiều ít đều khác biệt nhau.

Nghi thức cầu nguyện là căn bản của đời sống tôn giáo trong mọi hoàn cảnh đời sống. Cầu nguyện cùng Thiên Chúa là hơi thở của người tín hữu. Cầu nguyện giúp người tín hữu lấy lại sức lực quân bình cho tâm hồn.

Trong lãnh vực thể thao đá banh, ta cũng thấy các cầu thủ cầu nguyện trước, đang khi và sau khi thi đấu đá banh. Hình thức cầu nguyện của họ thấy được lúc họ chắp tay trên ngực, ngước mắt lên trời, có những cầu thủ qùy gối xuống sân cỏ chắp tay ngửa mặt lên cầu miệng lẩm bẩm lời cầu xin. Họ nói lời gì ta không nghe thành tiếng. Nhưng có phần chắc họ kêu xin Trời cao giúp họ đá banh tốt, hay cám ơn đã giúp đá trái banh phá lưới mang lại chiến thắng cho đội. Vì họ tin là ơn trợ giúp của Trời cao rất cần trong thi đấu. Chả thế mà dân gian có câu ngạn ngữ nói lên sự tin tưởng vào ơn Trên: Mình tính không bằng Trời tính!

Như thế cầu nguyện là nhu cầu quan trọng cho con người trong cả hai lãnh vực tôn giáo lẫn thể thao bóng đá.

Nghi thức ca hát cũng có ở cả hai lãnh vực này. Khi bắt đầu Thánh Lễ, cả nhà thờ thờ hay Ca đoàn hát với tiếng đàn trống bài thánh ca vang lên trong thánh đường. Lời ca tiếng hát mang đến không khí thánh thiêng rộn ràng, gây lòng vui mừng phấn khởi mọi người. Như thế buổi lễ tăng phần long trọng cùng ý nghĩa thêm.

Bắt đầu trận thi đấu bóng đá, bài quốc ca hay còn gọi gọi là quốc thiều của hai đội thi đấu cũng được ban nhạc cử lên và mọi người trong vận động ai biết thì cùng hát to tiếng. Bài quốc ca được hát hay đàn chơi cử lên mang lại niềm tự hào hãnh diện, không khí rộn ràng trân trọng cho quốc gia cử đội tuyển đi thi đấu. Và mọi khán gỉa trong cầu trường, nhất là các cầu thử đứng ở sân cỏ và nhóm khán gỉa của đội tuyển nước đó không chỉ cảm động, mà còn tự hào hãnh diện cho thể diện quốc gia mình nữa.

Trong thánh đường khi có Thánh lễ hay giờ phụng vụ, không chỉ hát một bài hát, nhưng còn nhiều bài khác nhau ở mỗi phần đoạn phụng vụ. Và những bài thường có nhiều tiểu khúc diễn tả tâm tình tạ ơn, ca tụng hay cầu xin của con người muốn nói với Thiên Chúa dựa trên nền tảng Kinh Thánh, cùng nhuốm đậm không khí hòa bình.

Trái lại, bài hát mọi người hát hò reo trong sân động thường ngắn, phần nhiều có một tiểu khúc hay một câu dễ thuộc dễ hát thôi. Những bài ca hát hò reo đó không chỉ mang mầu sắc phấn khởi vui mừng, nhưng có khi còn nhuốm mầu sắc chỉ trích thách thức đội banh đối thủ hay trọng tài nữa.

Nghi thức làm dấu Thánh gía. Người Công giáo mỗi khi bước vào thánh đường hay cả lúc đi ra, đều lấy tay chấm nước Thánh để nơi cửa ra vào làm dấu Thánh gía trên mình. Nghi thức nhắc nhớ lại Bí tích rửa tội ngày xưa đã lãnh nhận bằng nứơc và trong Ba ngôi Thiên Chúa biểu hiệu qua dấu Thánh gía. Ngoài ra họ còn làm dấu Thánh gía mỗi khi đọc kinh cầu nguyện nữa.

Trong thể thao bóng đá không có nghi thức bắt buộc này. Nhưng trong thực tế, nhiều cầu thủ, nhất là cầu thủ vùng Nam Mỹ, hay Tây ban Nha mỗi khi ra sân cỏ thi đấu, họ đều lấy tay chấm sân cỏ và làm dấu Thánh gía trên mình. Huấn luyện viên nổi tiếng Maradona của đội tuyển Argentina, có thói quen làm dấu Thánh gía trên mình nhiều lần, khi đội tuyển của ông bắt đầu xuất trận thi đấu.

Người tín hữu Công giáo chấm tay vào nước Thánh làm dấu Thánh gía. Còn cầu thủ đá banh, nếu có làm dấu Thánh gía tùy theo mỗi cá nhân, lại lấy tay quệt xuống sân cỏ.

Nghi thức chúc bình an. Người tín hữu Công giáo trong Thánh lễ Misa đến phần trước khi rước lễ, có nghi thức chúc bình an cho nhau. Chúc bình an là cung cách chào hỏi thân thiện chúc mừng, cám ơn nhau ngay trong giờ phút thánh thiêng nhiệm mầu giữa thánh lễ. Qua đó họ muốn chiếu tỏa trao cho nhau niềm vui hạnh phúc qua cử chỉ bắt tay, hay cúi đầu chào bái nhau.

Trên sân cỏ thi đấu, khi một cầu thủ đá banh tung lưới mang lại chiến thắng cho đội, các cầu thủ đội thắng hân hoan mừng rỡ vội vã chạy lại ôm hôn nhau. Chúc mừng nhau, có khi cả huấn luyện viên và những cầu thủ dự bị chờ ngoài sân cũng chạy vào sân cỏ ôm chúc mừng cầu thủ vừa đá tung lưới đối phương. Cử chỉ này mang thêm tinh thần phấn khởi tự tin cho toàn thể cầu thủ và những khán gỉa ủng hộ nữa. Cung cách này đậm mầu sắc tình tự tinh thần đoàn kết của con người cùng chung vui sẻ buồn với nhau trong mọi cảnh ngộ đời sống.

Kèn Vezuzula

Trong sân vận động ở nước Nam Phi, các khán gỉa mang theo chiếc kèn mầu đỏ hay vàng làm bằng nhựa dài khoảng một mét. Ngoài tiếng reo hó hát xướng, họ còn thổi kèn lên. Âm thanh phát ra từ tiếng kèn đơn thuần một âm vang. Nó không giống âm điệu mà chúng ta thường nghe phát ra từ tiếng đàn. Có người nghĩ là giống tiếng của đàn ong phát ra. Có nhận xét cho rằng đó là âm thanh thiên nhiên của vùng miền Phi Châu. Âm thanh này kỳ lạ nghe chói tai làm căng thẳng thần kinh.

Kèn này có tên là Vuvuzela. Âm thanh phát ra từ Vevuzula là tiếng gào thét phản ảnh nhớ lại sự đau đớn thống khổ của người dân trong thời kỳ sống trong ách bị đô hộ thời thuộc địa, như Ông Maluleke, một vị trong hội đồng tôn giáo Nam Phi, cắt nghĩa như vậy.

Cũng theo Ông Malukele, kèn Vuvuzela ở nước làng giềng Botswana được coi là một loại nhạc cụ Kinh Thánh. Và theo Jaqueline Chireshe: Thiên Chúa muốn con ngưòi ca tụng Ngài bằng âm thanh của tiếng kèn.

***************

Môn thể thao bóng đá không là đời sống. Nhưng nó là một sinh hoạt trong nếp sống văn hóa của đời sống con người.

Môn thể thao này cũng không phải là một tôn giáo. Nhưng nó giúp nhắc nhớ con người đến thân xác và tinh thần của mình là món qùa tặng châu báu Trời cao ban cho.

Vì thế vui chơi thi đấu dành phần chiến thắng, danh dự, nhưng không quên đến ý nghĩa tập luyện cho thân xác cùng tinh thần trở nên khoẻ mạnh dẻo dai tinh nhanh, nhất là tinh thần cao thượng kính trọng nhau.

“Mens sana in corpore!”( Juvenal, 60-127 sau Công nguyên)

Mùa World Cup 2010
Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
(nguồn : vietcatholic.net)

AUDIO THANH LE CHUA NHAT XII TN NAM C

Audio Thanh Le Chua Nhat XII thuong nien nam C.
Cha giao GioanBaotixita Nguyen Van Dan dang le.
Ca doan Cecilia hat le.
Moi bam VAO DAY va chon bai nghe.

Huu Toan.

LẼ SỐNG 20.6

20 Tháng Sáu
Ai Hơn Ai?

Trong một khu vườn tuyệt đẹp kia có nhiều loại hoa đua nhau khoe màu tranh sắc: Hoa Hồng, hoa Hướng Dương, hoa Vạn Thọ, hoa Cúc, kể cả vài cụm bông Móng Tay và bông Mười Giờ.


Một ngày kia, có người đến nhìn ngắm những bông hoa đẹp, rồi lấy một cây thước ra đo chiều cao, chiều dài cũng như đếm số các nụ hoa. Xong ông ta bỏ đi.

Ý thức về chiều cao và độ lớn của mình, hoa Hướng Dương càng vươn cổ lên cao và nói: "Trong khắp khu vườn, không hoa nào lớn mạnh như chúng tôi". Nghe nói thế, hoa Hồng lên tiếng: "Nhưng không hoa nào đẹp và tỏa hương thơm ngát như chúng tôi". Không chịu thua ai, hoa Vạn Thọ góp lời: "Hai người nói thế nghe sao phải, to lớn và thơm tho nào có ý nghĩa gì. Hai người làm gì có được nhiều bông hoa như chúng tôi".

Nghe những loại hoa trên tranh luận, các loại hoa Cúc, hoa Móng Tay và hoa Mười Giờ cảm thấy tủi phận. Hoa Móng Tay tìm lời an ủi hoa Mười Giờ: "Bọn mình không đẹp, không thơm, nhưng được cái là dễ trồng nên được nhiều người ưa thích".

Sau đó, khu vườn trở lại yên lặng trong khoảnh khắc. Nhưng hoa Cúc phá tan sự im lặng nặng nề với những phát biểu sau đây: "Sao các anh, các chị lại có thể suy nghĩ thế? Bởi đâu các anh các chị lại tranh nhau về chiều cao, về độ lớn, về vẻ đẹp, về hương thơm. Anh chị quên rằng: Dù lớn hay nhỏ, dù mạnh hay yếu, dù đỏ hay vàng, mọi bông hoa đều nhận lãnh hình hài, vẻ đẹp và hương thơm từ bàn tay của Ðấng Tạo Hóa và dưới mắt Người chúng ta đều như sau. Mỗi chúng ta đều được Người ban cho đồng đều ánh sáng và hơi ấm của mặt trời. Mỗi bông hoa đều được Người cho mưa rơi xuống gốc và sương sa trên mình như nhau. Ðó là Mầu Nhiệm của lòng quảng đại và khoan nhân của Thiên Chúa".

Sự phân bì, ghen tuông đã và đang làm khổ đau cho con người cũng bằng tính tự cao, tự đại hay ít ra tính phân bì, ghen ghét cũng làm cho chúng ta không được thư thái, bình an. Vì thế, có người đã đề ra những phương pháp sau đây như những điều kiện để được hưởng sự bình an trong tâm hồn:

- Nếu tôi không muốn so sánh mình với người khác, tôi sẽ cảm thấy hạnh phúc với những gì tốt đẹp nơi tôi.

- Nếu tôi không làm nô lệ cho sự thành công, tôi có thể sản xuất những thành quả tốt đẹp kẻ khác chờ đợi nơi tôi.

- Nếu tôi không để mình bị vướng vào mạng lưới của sự cạnh tranh, tôi sẽ thông phần và chia sẻ được những cái tốt đẹp hàm ẩn trong tất cả mọi người.

Trích sách Lẽ Sống

LỜI CHÚA CN 12 THƯỜNG NIÊN NĂM C (Lc 9, 18-24)

Thứ Bảy, 19 tháng 6, 2010

LẼ SỐNG 19.6

19 Tháng Sáu
Thế Ư?

Hakuin là một thiền sư nổi tiếng tại Nhật Bản, ông sống ẩn dật trên núi. Ngày kia, có một thiếu nữ con nhà gia giáo bỗng thấy mình có thai. Cô nàng tuyên bố với mọi người rằng chính thiền sư Hakuin là tác giả của bào thai. Vừa nghe tin này, cả dân làng, do cha mẹ của cô thiếu nữ dẫn đầu, đã giận dữ kéo đến chòi của vị thiền sư. Họ la hét, chửi rủa vị thiền sư đủ điều...

Nhưng vốn điềm tĩnh, nhà sư chỉ biết mỉm cười thốt lên: "Thế ư?". Ai cũng nghĩ đó là một cách chịu tội. Ai cũng nghĩ chính ông là tác giả của bào thai trong lòng người thiếu nữ. Khi đứa bé chào đời, thiền sư Hakuin lặng lẽ đến nhận nó và đưa về chiếc chòi nghèo nàn của mình. Ông bồng lấy nó, nâng niu nó và chăm sóc nó như chính đứa con ruột của mình.

Nhưng khoảng 18 năm sau, người thiếu nữ bỗng hối hận về hành vi của mình. Cô thú nhận rằng người cha của đứa bé chính là chàng ngư phủ trẻ trong làng.

Nghe tin này, ai ai trong làng cũng cảm thấy xấu hổ vì đã nghĩ xấu và nhục mạ một con người đáng kính. Một lần nữa, dưới sự dẫn đầu của cha mẹ thiếu nữ, cả làng kéo nhau đến chòi của vị thiền sư. Mọi người sụp lạy tỏ dấu sám hối vì đã xúc phạm đến thanh danh của vị đạo sĩ thánh thiện. Giữa lúc mọi người đồng thanh tuyên bố sự vô tội và cứu gỡ danh dự cho mình, vị thiền sư chỉ mỉm cười nói: "Thế ư?".

Hai tiếng "Thế ư?" của thiền sư Hakuin trên đây xem chừng như cũng cùng một âm điệu với hai tiếng "Xin vâng" của Mẹ Maria.

Thái độ điềm nhiên và chấp nhận không chỉ là kết quả của một sự rèn luyện ý chí, nhưng còn là một thể hiện của niềm tin. Thưa xin vâng trước tiên có nghĩa là tuyên xưng Tình Yêu không hề lay chuyển của Thiên Chúa. Thưa xin vâng là chấp nhận đi vào chương trình của Thiên Chúa, trong đó cho dù phải trải qua tăm tối và thử thách, con người vẫn tin ở sự thành toàn.

Thưa xin vâng cũng có nghĩa là nói lên niềm tin nơi chính bản thân: dù có yếu hèn, vấp ngã, con người vẫn luôn là đối tượng của một Tình Yêu chung thủy và là trọng tâm của một chương trình cao cả mà thiên Chúa đang thực hiện.

Thưa xin vâng cũng có nghĩa là nói lên niềm tin vào cuộc đời. Cuộc đời này, dù có đen bạc đến đâu, vẫn luôn có một ý nghĩa và tha nhân, dù có thấp hèn, xấu xa đến đâu, vẫn tiếp tục mang lấy hình ảnh cao vời của Thiên Chúa.


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Sáu, 18 tháng 6, 2010

LẼ SỐNG 18.6

18 Tháng Sáu
Tạ ơn Chúa

Thi sĩ Lamartine của Pháp có kể lại một giai thoại như sau: Một hôm, tình cờ đi qua một khu rừng, ông nghe một âm thanh kỳ lạ. Cứ sau mỗi tiếng búa gõ vào đá lại vang lên một tiếng "Cám ơn". Ðến gần nơi phát ra âm thanh, thi sĩ mới nhận thấy một người thợ đang miệt mài làm việc. Cứ mỗi lần gõ vào phiến đá, ông lại thốt lên "Cám ơn'.

Thi sĩ Lamartine mới nấn ná đến trò chuuyện, người thợ đập đá giải thích: "Tôi cảm ơn Chúa". Ngạc nhiên về lòng tin của một con người mà cuộc sống hẳn phải lầm than lam lũ, thi sĩ mới nói: "Giả như bác được giàu có, thì tôi hiểu tại sao bác không ngừng thốt lên hai tiếng cám ơn. Ðằng này, Thiên Chúa chỉ nghĩ tới bác có mỗi một lần duy nhất đó là lúc Ngài tạo nên bác. Sau đó, Ngài ban cho bác có mỗi cái búa này để rồi không còn ngó ngàng gì đến bác nữa. Thế thì tại sao bác lại mỏi miệng để cám ơn Ngài?".

Nghe thế, người đập đá mới hỏi vặn lại thi sĩ: "Ngài cho rằng Chúa chỉ nghĩ đến tôi có một lần thôi sao". Thi sĩ Lamartine bèn thách thức: "Dĩ nhiên, Chúa chỉ nghĩ đến bác có mỗi một lần mà thôi".

Người thợ đá nghèo, nhưng đầy lòng tin, mới mếu máo thốt lên: "Tôi nghĩ rằng điều đó không có gì đáng ngạc nhiên cả. Ngài nghĩ rằng Thiên Chúa đã đoái thương đến một người thợ đá thấp hèn như tôi, dù chỉ một lần thôi. Vậy không đủ cho tôi cám ơn Ngài sao? Vâng, cám ơn Chúa, cám ơn Chúa". Nói xong, ông bỏ mặc cho thi sĩ đứng đó và tiếp tục điệp khúc quen thuộc của ông, vừa đục đá vừa tạ ơn Chúa.

Thiên Chúa yêu thương con người. Ðó là bài ca mà chúng ta không chỉ hát lên trong mùa Giáng Sinh, mà phải được lập lại trong từng khoảnh khắc của cuộc sống. Nhưng khi chúng ta nói: Thiên Chúa yêu thương con người, điều đó trước hết phải có nghĩa là Ngài yêu thương tôi. Thiên Chúa không yêu thương con người bằng một cách chung. Thiên Chúa yêu thương mỗi người bằng một tình yêu cá biệt, riêng rẽ. Ðiều đó cũng có nghĩa là mỗi người là một chương trình trong trái tim của Thiên Chúa.

Ðối với Thiên Chúa, không có đám đông vô danh, cũng không có những con số. Ngài gọi mỗi người bằng tên gọi riêng... Chúng ta không thể đo lường Tình Yêu của Thiên Chúa bằng thước đo hẹp hòi, thiển cận của chúng ta. Trong Tình Yêu Quan Phòng của Ngài, mỗi một con người là một chương trình và mỗi một chương trình đều cao cả. Thiên Chúa không tạo dựng chúng ta theo một khuôn mẫu, mà theo một chương trình riêng cho mỗi người. Mỗi một biến cố xảy đến đều được Ngài sử dụng để đem lại điều thiện hảo cho chúng ta. Nói như thánh Phaolô, Thiên Chúa quy mọi sự về điều thiện cho những kẻ Ngài yêu thương. Cũng chính vị thánh này nói: "Tất cả nọi sự đều là ân sủng của Chúa".


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Năm, 17 tháng 6, 2010

LẼ SỐNG 17.6

17 Tháng Sáu
Ðời Vẫn Có Ý Nghĩa

Một tác giả người Thụy Ðiển đã tưởng tượng ra một cuộc tranh luận sôi nổi diễn ra giữa các dân cư sinh sống tại một khu rừng nọ. Ðề tài của cuộc tranh luận là: Ðâu là ý nghĩa của cuộc sống?...

Kẻ kên tiếng phát biểu ý kiến đầu tiên không ai khác hơn là chú chim họa mi suốt ngày chỉ biết ca hát líu lo. Chú khẳng định rằng: "Ðời là một cuộc ca hát không ngừng". Một chú chuột chũi phản pháo tức khắc.

Theo chú: "Ðời là một cuộc tranh đấu không ngừng để chống lại bóng tối". Con bướm có đôi cánh sặc sỡ thốt lên: "Ðời là vui chơi và hạnh phúc". Con ong đang miệt mài tìm mật bên mấy cánh hoa không tán thành ý kiến ấy chút nào. Nó bảo rằng: "Ðời là một cuộc lao động vất vả". Con kiến cũng nhất trí với con ong để chỉ thấy rằng đời là lao động. Từ trên cao, một con phượng hoàng cũng góp ý kiến: "Ðời là tự do". Ðó là ý kiến của động vật.

Các thảo mộc cũng không thiếu ý kiến để đóng góp. Cây thông cao sừng sững giữa rừng hoàn toàn tán thành ý kiến của con phượng hoàng: "Ðời là tự do". Một cánh hoa dại giữa rừng thì lại hùa theo con ong và con kiến để khẳng định rằng đời chỉ là lao động vất vả. Cánh hoa hồng thì lại đồng quan điểm với con bướm để cho rằng đời là hạnh phúc và vui tươi.

Thế giới vô tri cũng lên tiếng phát biểu. Một đám mây đen ngao ngán thốt lên: "Ðời chỉ là đắng cay và nước mắt". Một dòng sông hiền hòa trôi chảy cũng nhận định: "Ðời là một dòng nước chảy không ngừng".

Lời phát biểu cuối cùng nhưng cũng là ý kiến tổng kết của cuộc tranh luận là tiếng chuông từ một giáo đường bên cạnh khu rừng. Thật thế, tiếng chuông ấy ngân lên những lời như sau: "Tất cả những lời phát biểu của quí vị đều đúng cả. Ðời là hòa bình, đời là ca hát, đời là vui tươi, đời là tranh đấu, đời là bể khổ, đời là đắng cay, nhưng tất cả đều tươi nở trong lòng người nhờ quyền lực của Chúa Thánh Thần".

Tôi bởi đâu mà đến? Tôi sẽ đi về đâu? Tại sao tôi đau khổ? Ðó là những câu hỏi lớn nhất mà một lúc nào đó trong cuộc sống, chúng ta không thể tránh né được.

Cám ơn Chúa vì đã cho chúng ta giải đáp trong chính Chúa Giêsu Kitô. Chính Ngài là Ánh Sáng chiếu rọi trên bí ẩn của cuộc đời cũng như trên chính Mầu Nhiệm của con người. Công đồng Vatcican II trong hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng đã nói với chúng ta rằng huyền nhiệm của con người chỉ có thể được sáng tỏ trong chính Mầu Nhiệm của Ngôi Hai Nhập Thể. Chúng ta chỉ có thể tìm thấy câu trả lời cho những câu hỏi lớn của cuộc sống bằng cách nhìn vào Ðức Giêsu Kitô. Quả thật, Ngài đã sống kiếp con người như mọi người. Nhưng chính khi tiếp nhận mọi mùi vị của cuộc sống, Ngài đã mặc lấy cho cuộc sống một ý nghĩa, một hướng đi.

Cuộc sống có ngọt bùi, đắng cay, chua sót, cuộc sống có lao động, tranh đấu hay thảnh thơi... Tất cả đều mang lấy một ý nghĩa. Trong Chúa Giêsu, mất mát trở thành thắng lợi, thua thiệt trở thành cơ may, đau khổ trở thành dịu ngọt, cái chết trở thành khởi đầu của sự sống.

Nếu chúng ta đón nhận cuộc đời này bằng với cái nhìn ấy, thì quả thực không một thử thách, mất mát, đau khổ nào khiến chúng ta thất vọng. Với Quyền Lực của Thánh Thần mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta, những bể khổ, những đắng, cay chua xót của cuộc sống đều có thể nở hoa, những niềm vui nhỏ ấy sẽ mang lấy chiều kích vĩnh hằng, những việc làm vô danh thường ngày sẽ mang lấy giá trị vĩnh cửu.


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Tư, 16 tháng 6, 2010

LẼ SỐNG 16.6

16 Tháng Sáu
Hãy Ðến Với Ta

Tại Roma có một ngôi thánh đường cổ tên là Dominus sub aquis, nghĩa là Chúa ở dưới nước... Du khách đến Roma thường đến viếng thăm ngôi thánh đường này, vì phía trên bàn thờ, có một tượng thánh giá rất đặc biệt: bất cứ ai đến quỳ trước tượng thánh giá và cầu nguyện với tất cả thành tâm đều nhận được sức mạnh và niềm an ủi thâm sâu...

Người ta kể lại rằng tác giả của tượng thánh giá bằng cẩm thạch này đã mất rất nhiều năm mới hoàn thành được tác phẩm. Hơn hai lần, mỗi khi treo bức tượng lên để ngắm nhìn, ông lại cho kéo xuống và đập phá đi vì ông cho rằng tác phẩm vẫn chưa diễn đạt được điều ông mong muốn...

Sau nhiều năm bỏ dở, ông lại bắt tay vào công trình lần thứ ba. Nhưng chính lúc ông miệt mài chú tâm vào công việc thì cũng là lúc ông gặp nhiều thử thách nhất. Nhiều người ganh tỵ nên tìm cách hạ uy tín của ông. Vợ con ông qua đời trong những hoàn cảnh thật đau thương. Người nghệ sĩ chỉ còn biết kêu cầu xin Chúa giúp ông chịu đựng được mọi gian lao thử thách.

Ai cũng tưởng rằng cơn thử thách đã khiến ông bỏ cuộc. Trái lại, ông càng miệt mài chú tâm vào công trình. Người nghệ sĩ dồn tất cả niềm đau của mình lên khuôn mặt của Ðức Kitô. Bức tượng của Chúa Giêsu trên thập giá không là một phiến đá lạnh lùng, xa lạ, mà trở thành niềm đau đậm nét của một tâm hồn. Bức tượng đã trở nên sống động và có sức thu hút do chính tâm tình mà người nghệ sĩ đã muốn tháp thập vào đó.

"Hỡi tất cả những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến với Ta và Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho".

Lời mời gọi trên đây của Chúa Giêsu hẳn phải đem lại cho chúng ta an ủi đỡ nâng, nhất là trong những lúc chúng ta gặp đau khổ, thử thách. Chúa Giêsu như muốn nói với chúng ta rằng Ngài đang có đó, Ngài có mặt trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta, Ngài mang lấy tất cả những sầu đau, buồn tủi của chúng ta. Mãi mãi, Ngài vẫn là Ðấng Cứu Chuộc chúng ta. Mãi mãi, Ngài đến với chúng ta như đến với những người phong hủi, những kẻ bệnh tật, kẻ tội lỗi, phường thu thuế... Ngài đón nhận tất cả mọi khổ nhọc, khó khăn của chúng ta. Và bởi vì Ngài mang lấy mọi khổ đau của con người, cho nên Ngài cũng tự đồng hóa với con người, nhất là những người nghèo khổ, bất hạnh. Trên những khuôn mặt gần như không còn hình tượng của con người nữa, chúng ta phải nhận diện được chính Ngài. Ngài đã từng nói với chúng ta: "Ai cho những kẻ bé mọn nhất, dù chỉ một chén nước lã thôi, họ đã cho chính Ta vậy".

Trút lên Ngài tất cả gánh nặng của khổ đau, được ngài nâng đỡ bổ sức, chúng ta cũng hãy mang lại an ủi đỡ nâng cho mọi người xung quanh. Sự đau khổ nào cũng có sức liên kết con người. Kết hiệp với Ðức Kitô trên thập giá, chúng ta cũng dễ dàng liên đới, cảm thông với mọi người đang đau khổ...


Trích sách Lẽ Sống