Thứ Hai, 31 tháng 5, 2010

CHIA BUỒN





* Được tin Bà Maria Phạm Thị Nam là chị ruột của Cha Phêrô Phạm Văn Long Chánh Xứ giáo xứ Thuận Phát quận 7 được Chúa gọi về lúc 12 giờ 00 ngày thứ bảy 29/5/2010. Trưa ngày 31/5/2010 HĐMVGX Thuận Phát cùng đại diện các đoàn thể trong giáo xứ đã đến chia buồn cùng tang quyến và dâng giờ kinh cầu nguyện cho linh hồn Maria. Xin Thiên Chúa nhân lành tha thứ mọi lỗi lầm và sớm đưa linh hồn Maria về chốn nghĩ ngơi hưởng Nhan Thánh Chúa.

* Xem thêm hình TẠI ĐÂY.

Hữu Toàn.

LẼ SỐNG 31.5

31 Tháng Năm
Lòng Tốt Của Mẹ
Dạy Con Muốn Tiếp Tục Sống

George Washington, một trong những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con chí hiếu đối với mẹ mình.

Sau những trận chiến cam go nhất, giữa những công việc nặng nề của một nguyên thủ quốc gia, ông thường về nhà thăm viếng và trò chuyện lâu giờ với người mẹ già.

Một hôm, ngạc nhiên về sự gắn bó của ông đối với mình, mẹ đã đặt câu hỏi như sau: "Tại sao con lại chịu khó mất hằng giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?".

Vị tổng thống của nước Mỹ đã trả lời như sau: "Thưa mẹ, ngồi bên cạnh mẹ để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng tốt của mẹ dạy con còn muốn tiếp tục sống".

Hôm đó, Giáo Hội mừng lễ Mẹ đi viếng bà thánh Ysave. Giáo Hội đặt lễ này vào cuối tháng năm như cao điểm của tháng hoa.

Sự vội vã lên đường của Mẹ Maria để đi thăm người chị họ cưu mang trong lúc tuổi già là biến cố khai mạc sứ mệnh của Mẹ: đó là sứ mệnh của một người Mẹ luôn có mặt để phù trợ con người. Sự hiện diện ấy đã củng cố niềm tin của bà Ysave. Sự hiện diện ấy đã đem lại niềm an ủi vô bờ cho Gioan Tẩy giả.

Bên cạnh Chúa Giêsu, từ tiệc cưới Cana cho đến dưới chân thập giá, và những ngày đầu của Giáo Hội, Mẹ luôn có mặt để nâng đỡ, để ủi an, để củng cố niềm tin của mọi người.

Một cách âm thầm nhưng vô cùng gần gũi, ngày nay lúc nào Mẹ cũng có mặt trong Giáo Hội và trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta.

Tưởng niệm biến cố Mẹ lên đường đến viếng thăm bà Ysave trong ngày cuối tháng hoa này, mỗi người Kitô chúng ta được mời gọi để tin tưởng hơn bao giờ hết sự hiện diện đầy ưu ái của Mẹ có sức mang lại cho chúng ta niềm vui, sự can đảm để tiếp tục dấn bước trong cuộc lữ hành trần gian này.

Những lúc mệt mỏi trong cuộc sống, những lúc tối tăm bao trùm cuộc sống, những lúc hụt hẫng đến độ không còn biết nương tựa vào ai, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ. Một vài Kinh Kính Mừng mà chúng ta có thể chỉ đọc một cách máy móc, đó chính là những giây phút chúng ta đến ngồi bên Mẹ. Ðó không là những phút giây vô ích, trái lại sự thanh thản của Mẹ, lòng quảng đại của Mẹ sẽ là nguồn nâng đỡ chúng ta.

Trích sách Lẽ Sống

R.I.P

XIN CẦU CHO LINH HỒN
MARIA

Trong niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh,

Hội Đồng Mục Vụ Giáo xứ Thuận Phát trân trọng báo tin :

Bà MARIA PHẠM THỊ NAM
Sinh ngày 19.10.1955 tại Long Định, Định Tường
là chị ruột Cha Phêrô Phạm Văn Long
Chánh xứ Thuận Phát

Đã được Chúa gọi về

lúc 12g00 ngày Thứ Bảy 29.5.2010
(Nhằm ngày 16 tháng Tư năm Canh Dần)
tại tư gia : 352/1A đường Bình Quới, P.28,
Quận Bình Thạnh, TP.HCM


Hưởng dương 56 tuổi


CHƯƠNG TRÌNH TANG LỄ

Chúa Nhật 30.5. 2010

  • 10g00 : Nghi Thức Tẩn Liệm - Nhập Quan
Thứ Hai 31.5.2010
  • 18g00 : Thánh lễ tại gia
Thứ Ba 01.6.2010
  • 07g30 : Nghi Thức Động Quan và di quan đến nhà thờ
  • 08g00 : Thánh lễ An Táng cử hành tại nhà nguyện Lasan Mai Thôn, Bình Quới, Thanh Đa, Bình Thạnh, TP.HCM.
Sau đó di quan đi hoả táng
tại Bình Hưng Hoà, Bình Tân, TP.HCM

Xin Quý Cha, Quý Tu sĩ và Cộng đoàn hiệp ý cầu nguyện cho linh hồn MARIA sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa.

Thuận Phát, ngày 30 tháng 5 năm 2010
Hội Đồng Mục Vụ
Gx. THUẬN PHÁT
Kính báo

Chủ Nhật, 30 tháng 5, 2010

BẾ MẠC LỚP GIÁO LÝ GX THUẬN PHÁT






Chúa Nhật 30/5/2010 sau Thánh Lễ Thiếu Nhi (7g30) Giáo Xứ Thuận Phát đã tổ chức Lễ bế mạc các lớp Giáo Lý và phát thưởng cho các em đạt được thành tích cao. Tham dự buổi lễ gồm có đại diện HĐMVGX, đại diện các hội đoàn, đại diện phụ huynh, giáo lý viên...Cha Sở vì có việc khẩn cấp nên đã vắng mặt trong buổi lễ. Soeurs Tươi đại diện đọc báo cáo tình hình học tập của các em trong năm qua, Soeurs đã nêu lên những thành tích tốt đạt được trong năm qua cũng như những thiếu sót còn tồn tại. Soeurs cám ơn các anh chị giáo lý viên, các đoàn thể đã giúp đỡ cho các lớp giáo lý của giáo xứ về tinh thần cũng như vật chất và mong muốn nhận được sự giúp đỡ nhiều hơn nữa để các khóa giáo lý tiếp theo ngày một tốt hơn. Đại diện phụ huynh cũng nói lên lòng tri ân đối với các Soeurs, anh chị GLV đã không ngại gian khổ để dạy dỗ các em Giáo Lý Công Giáo và sống tốt hơn trong cuộc sống hằng ngày. Các em đã chụp hình lưu niệm với các thầy cô GLV.

Mời xem thêm hình TẠI ĐÂY.

Hữu Toàn tường thuật.

RƯỚC KIỆU ĐỨC MẸ CUỐI THÁNG 5 - 2010 VÀ TIẾN HOA KÍNH ĐỨC MẸ






*Chiều thứ bảy 29/5/2010 vào lúc 17g Giáo Xứ Thuận Phát đã tổ chức Rước Kiệu Đức Mẹ nhân kết thúc Tháng Kính Đức Mẹ. 16g30 chuông hiệu 2 vừa vang lên, các đoàn thể, TNTT, đội tiến hoa và cọng đoàn đã có mặt đông đủ. Mọi người xếp hàng thứ tự với cành hoa trên tay. Kiệu Đức Mẹ được các Soeurs Dòng MTG trang trí hoa tươi thật đẹp, cờ Hội Các Bà Mẹ Công Giáo và TNTT tung bay trong gió. Đúng 17 g Cha chủ sự và đoàn lễ sinh tiến đến Kiệu Đức Mẹ, Cha chủ sự đọc lời khai mạc, xông hương Kiệu Đức Mẹ và bắt đầu Cuộc Rước quanh nhà thờ, sau đó tiến thẳng vào nhà thờ trong sự trang nghiêm tràn đầy lòng Yêu Mến Đức Mẹ. Sau Cuộc Rước các em TNTT Tiến Hoa Đức Mẹ (đội Tiến Hoa Đức Mẹ do các Soeurs Dòng MTG phụ trách) ca đoàn Cécilia hát Rước Kiệu và Tiến Hoa.

* Xem thêm hình TẠI ĐÂY.

Hữu Toàn tường thuật.

LẼ SỐNG 30.5

30 Tháng Năm
Một Chỗ Khủng Khiếp

Câu chuyện xảy ra tại một nhà giam bên Liên Xô. Một cựu tù nhân, bà Arsenjeff, thuật lại một kinh nghiệm mắt thấy tai nghe diễn ra tại đó, nơi bà gọi là "Một chỗ khủng khiếp" như sau: Một buổi chiều kia, một cô gái trẻ cùng bị giam với chúng tôi kề miệng vào tai tôi khẽ nói: chị biết mai là ngày gì không? Rồi không đợi tôi trả lời, cô ta nói tiếp: "Mai là ngày lễ Phục Sinh".
Nghe thế, tôi tự hỏi: "Lễ Phục Sinh đã đến rồi sao, lễ của niềm vui và hy vọng? Nhưng trong tù, niềm vui của chúng tôi đã héo úa và khô cằn. Còn niềm hy vọng?...". Tôi đi lại trong phòng và không dám suy nghĩ tiếp.

Bỗng một tiếng reo vang nổi lên phá tan bầu không khí nặng nề: "Ðức Kitô đã sống lại thật".

Quá sức sửng sốt, các nhân viên trở nên bất động như những tượng gỗ. Có lẽ trong tâm trí, họ giận dữ lên án một diễn tiến không bao giờ xảy ra tại đây. Sau một lúc yên lặng, tôi nghe tiếng giày nặng nề tiến đến gần phòng giam của chúng tôi. Rồi cửa phòng được mở tung. Hai nhân viên giận dữ hỏi ai đã xướng câu mê tín dị đoan và hùng hổ túm lấy cô gái, lôi cô ta sền sệt ra khỏi phòng.

Một tuần lễ sau, cô ta được thả về phòng giam, mặt cô ta xanh xao, người gầy đi thấy rõ. Qua tuần lễ Phục Sinh, người ta đã biệt giam cô vào một phòng không có lò sưởi, để cái lạnh thấu xương và cơn đói hành hạ thân thể một con người họ cho là cuồng tín. Sau khi nằm yên tại một góc phòng hồi lâu, cô ta vẫy tay gọi tôi lại thều thào: "Dù sao tôi cũng đã tuyên xưng niềm tin vào sự Phục Sinh trong trại giam. Những cái khác không quan trọng gì cho lắm". Nói xong cô cố gắng mỉm cười và tôi thấy ánh mắt cô vẫn lóe sáng lên như dạo nào.

Ðược dịp tuyên xưng niềm tin Phục Sinh cách đặc biệt như cô gái trên thật hiếm hoi. Nhưng mẫu gương can đảm của cô phải nhắc nhở chúng ta cố gắng thực thi lời nguyện chúng ta luôn cùng nhau xướng lên sau những lời truyền phép: "Chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại, cho tới khi Chúa đến".

Tuyên xưng việc Chúa sống lại bằng cách hiểu rõ ý nghĩa và giá trị của sự chết, của những đau khổ, của những vấn đề khó khăn. Cuộc sống của chúng ta không chỉ đóng khung và chấm cùng tại đó. Nhưng người mang niềm tin Phục Sinh phải chiến đấu để vượt qua, để lướt thắng những khó khăn, hạn chế những đau khổ, những sự dữ, những tội lỗi, để phát huy cuộc sống mới của những tạo vật được tái sinh nhờ cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Kitô.


Trích sách Lẽ Sống

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT CHÚA BA NGÔI (Ga 16, 12-15)

Thứ Bảy, 29 tháng 5, 2010

LẼ SỐNG 29.5

29 Tháng Năm
Ðỉnh Cao

Ðỉnh Everest cao nhất thế giới của dãy Hy Mã Lạp Sơn như có một ma lực hấp dẫn những người leo núi thiện nghệ. Ai đã vướng vào môn thể thao leo núi xem đó như là một giấc mơ, nếu ngày nào đó họ đặt được chân trên đỉnh núi cao 8,880 thước, quanh năm phủ tuyết này, nhưng chỉ có một số ít người thực hiện được giấc mộng ấy và rất nhiều người đã bỏ mình dọc theo con đường lên đỉnh.

Trên những con đường ấy, người ta thấy hai bia mộ ghi những dòng chữ sau đây: bia thứ nhất đề "Họ thấy được lần cuối cùng trong lúc gắng sức leo lên". Và bia thứ hai tưởng niệm một huấn đạo viên chỉ viết vỏn vẹn một câu "Ông ta chết trong lúc đang leo".

Nếu đời sống là một cuộc tranh đấu không ngừng thì để sống đạo và hành đạo cũng thế. Ðiều quan trọng không phải là thành công hay thất bại, mà là chỗi dậy và tiến bước. Phải gọi là thẳng tiến thì đúng hơn, vì câu tâm niệm của các Kitô hữu phải là: "ngày hôm nay tốt hơn ngày hôm qua, nhưng kém hơn ngày mai".

Bí quyết thành công thứ hai là không bao giờ chúng ta nên đi trên con đường nên thánh một mình, hãy noi gương những người đi trước, những thánh nhân và hãy cùng nhau tiến bước. Và nhất là hãy đi vào những vết chân Chúa Giêsu đã để lại.


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Sáu, 28 tháng 5, 2010

LẼ SỐNG 28.5

28 Tháng Năm
Người Tín Hữu Cuối Cùng

Tiểu thuyết gia Graham Greene thuật câu chuyện ông dự định viết như sau:

Ðây là một chuyện giả tưởng sẽ xảy ra trong tương lai rất xa, khi toàn thế giới chỉ còn được thống trị do một đảng duy nhất. Cảnh đầu tiên ở trong câu chuyện diễn ra trong một khách sạn nhỏ vào lúc màn đêm đã bao trùm vạn vật. Một người khách già nua, mệt nhọc, xốc xếch trong chiếc áo đi mưa đã phai màu, mang một chiếc xách tay tiến vào khách sạn, xin thuê một phòng. Ông ta viết tên họ, nghề nghiệp và địa chỉ vào bản lý lịch và chệnh choạng đi lên phòng. Người quản gia nhìn vào bản lý lịch và buộc miệng hỏi anh thư ký:

- Anh có biết ai đấy không?

- Làm sao tôi biết được. Anh thư ký trả lời.

- Ðức Giáo Hoàng đấy! Người quản gia quả quyết để anh thư ký tròn xoe đôi mắt hỏi vặn lại: Ðức Giáo Hoàng? Ðức Giáo Hoàng là gì?

Ðạo công giáo lúc ấy đã bị tiêu diệt hoàn toàn, chỉ còn Ðức Giáo Hoàng là người duy nhất được sống sót. Mạng Ngài còn được dung tha vì hai lý do: thứ nhất, đẻ chứng minh cho chính Ngài và cho mọi người là Giáo Hội đã chết và thứ hai, để theo dõi xem có tín hữu nào còn lần mò đến để tiếp xúc với Ngài không.

Khi đã biết chắc chắn 100% là duy có Ngài là độc nhất còn mang đức tin Công Giáo, nhà độc tài cho độ Ngài đến và tự tay lảy cò súng, kết liễu cuộc đời người tín hữu cuối cùng. Nhưng trong giây phút, giữa lúc bóp cò và Ðức Thánh Cha chết, một ý tưởng lóe ra trong đầu óc nhà độc tài: Có thể điều này ông tin lại có thật, thì sao?

Xuyên qua đời sống tính nhân của các tín hữu, có thể những người xem thấy đời sống chứng tá của họ tự hỏi: Tại sao họ lại sống như thế? Tại sao họ không chạy theo trào lưu, sống như nhưng kẻ khác, thời bây giờ ai lại không mánh mum lừa đảo, chợ đen chợ đỏ, v.v...? Lý tưởng nào hay ai đã ghi hình ảnh trên họ? Tại sao họ lại sống ở giữa chúng ta? Như thế đời sống chứng nhân đã là một sự tuyên xưng thầm lặng của tín hữu, nhưng nó rất mãnh liệt và hữu hiệu. Ðó là những lời phát biểu của Ðức cố Giáo Hoàng Phaolô VI trong lời giáo huấn của Ngài mang tựa đề "Truyền giáo trong xã hội tân tiến", Chúa Giêsu đã khẳng định: "Các con là muối đất", "Các con là ánh sáng thế gian". Ngài gọi những tín hữu như thế với lòng xác tín là họ xứng đáng để phơi bày và chia sẻ cho anh chị em đang sống bên cạnh.


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Năm, 27 tháng 5, 2010

LẼ SỐNG 27.5

27 Tháng Năm
Thế Giới Trong Tăm Tối

Một cuốn phim mang tựa đề: "Thế giới trong tăm tối" diễn tả câu chuyện một nhà khảo cổ danh tiếng tổ chức cuộc khai quật khoa học ở Giêrusalem. Ngọn đồi Calvariô được cẩn thận đào bới, kể cả những phiến đá và hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò, khám phá kỹ lưỡng, vì theo Phúc Âm thánh Gioan, xác của Chúa Giêsu được chôn cất trong một phần mộ gần nơi ngài bị xử án tử hình thập tự.

Sau bao công khó đào xới, khám sát, một ngày kia nhà khảo cổ tuyên bố: "Tôi đã tìm được xác ông Giêsu" và ông tổ chức một cuộc họp báo rầm rộ với nhiều phóng viên và nhiếp ảnh viên, dể trình bày thành quả mỹ mãn của bao ngày tháng đào xới, khảo cứu vất vả. Ông đã trưng dẫn trước mắt mọi người một xác đã khô đét, nhưng còn có thể nhận ra tay chân của xác này bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu, có cả những dấu chứng tỏ thân xác này bị nhuộm máu qua những tấm khăn quấn liệm xác.

Cuốn phim quay cảnh mọi người im lặng theo dõi lời thuyết trình của nhà khảo cổ, tình cờ có một phụ nữ phát biểu lớn tiếng: "Ðây là một sự thật hiển nhiên: ông ta đã bị đóng đinh, chết và được xác táng". Và nhà khảo cổ tiếp lời: "Vâng, đúng thế, chết và được an táng, nhưng... làm gì có chuyện phục sinh. Xác ông ta vẫn còn nằm đây".

Tiếp đến cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc tìm được xác ông Giêsu của nhà khảo cổ này: không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa, một vị linh mục tắt ngọn đèn chầu, cất Mình Thánh Chúa và đóng cửa nguyện đường, chuông các nhà thờ im tiếng, các nữ tu cởi khăn trùm đầu, thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống, đèn bên những ngôi mộ bị dập tắt. Bóng tối chìm đắm trong màn đêm u tối dày đặc.

Cuốn phim kết thúc bằng cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận: "Tôi đã đánh lừa thế giới, chính tôi đã làm xác giả của ông Giêsu và bí mật đặt vào trong mộ mấy năm trước khi tôi khởi sự đào bới tìm xác Ngài".

Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người tuôn đến mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hằng năm trong tuần thánh. Những ngọn nến được thắp lên và những tín hữu đã mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng, đi khắp nơi để soi sáng những con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang như báo tin: Chúa Giêsu đã Phục Sinh, tình yêu mạnh hơn hận thù, sự sống mạnh hơn cái chết.

Cuộc Phục Sinh của Chúa Giêsu không chỉ liên hệ đến cuộc đời của Ngài, nhưng nó cũng ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh của toàn thể nhân loại cũng như ảnh hưởng mật thiết đến cuộc sống, đến lòng tin và niềm hy vọng của chúng ta.

Chúng ta hãy chung lời cầu nguyện cho nhau và với nhau để mỗi người trong chúng ta được cùng chết, cùng an táng với Chúa Giêsu cho con người cũ ích kỷ và tội lỗi của chúng ta. Chết thật sự để chúng ta cùng sống lại với Chúa Giêsu trong một con người hoàn toàn mới, con người Phục Sinh.


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Tư, 26 tháng 5, 2010

LẼ SỐNG 26.5

26 Tháng Năm
Sức Mạnh Lời Chúa

Tokichi Ishi-I, một tên giết người không gớm tay, đã đạt được kỷ lục hạ sát nhiều nạn nhân nhất bằng những phương thế dã man không thể tưởng tượng nổi.

Hắn ta tàn nhẫn hạ sát đàn ông, phụ nữ, kể cả trẻ em. Với bàn tay khát máu, hắn đã thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ hắn gặp và muốn giết. Nhưng cuối cùng hắn cũng bị bắt và bị kết án tử hình.

Lúc ở nhà tù chờ ngày hành quyết, hai phụ nữ công tác tông đồ thử khuyên nhủ hắn, nhưng tất cả những câu hỏi han, trò chuyện của họ cũng không làm cho hắn mảy may động tâm, trái lại hắn nhìn thẳng vào họ với một cặp mắt dữ tợn như một hung thú.

Cuối cùng, mất hết kiên nhẫn, hai phụ nữ ra về. Họ chỉ để lại cho hắn quyển Tân Ước, với một hy vọng mỏng manh là hắn ta sẽ đọc và Lời Chúa sẽ hoạt động nơi tiếng nói con người trở nên hoàn toàn bất lực. Niềm hy vọng của họ đã trở thành sự thật. Ishi-I đã đọc và những câu chuyện trong Tân Ước hình như có một sự thu hút mãnh liệt khiến hắn cứ tiếp tục đọc, đọc mãi và cuối cùng hắn đọc đến câu chuyện diễn tả cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Câu Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha trên thập giá: "Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm", đã thắng sự chống trả cuối cùng trong tâm hồn của hắn. Sau đó anh thuật lại: "Ðọc đến câu này tôi mới dừng lại. Con tim tôi hình như bị đánh động, bị đâm thâu bằng một con dao dài. Tôi có thể gọi đó là tình yêu của ông Giêsu hay tôi phải gọi đó là lòng thương xót của Ngài? Tôi không biết, nhưng điều duy nhất tôi biết là sự hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi đã tin".

Ông Chrgwin, tác giả đã viết câu chuyện trên trong quyển sách mang tựa đề "Thánh Kinh trong thế giới truyền giáo" đã kết thúc câu chuyện bằng sự ngạc nhiên tột độ của những nhân viên nhà giam có phận sự đến dẫn độ Ishi-I đi hành quyết. Họ đã không gặp được tên sát nhân hung bạo như họ chờ đợi, nhưng là một con người hòa nhã, lễ độ. Ishi-I, tên sát nhân đã được Lời Chúa tái sinh.

Lời Chúa có sức mạnh vạn năng. Lời Chúa có thể biến đổi tâm hồn một tên sát nhân giết người không gớm tay như anh Tokichi Ishi-I và bao tâm hồn sa ngã khác. Lời Chúa có thể là động lực cho bao công tác bác ái của các tu sĩ nam nữ, đang dấn thân phục vụ những trẻ con bị bỏ rơi, những người già nua hấp hối không ai chăm sóc, những kẻ phải sống bên lề xã hội.


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Ba, 25 tháng 5, 2010

LE4 SỐNG 25.5

25 Tháng Năm
Cái Bật Lửa

Ðể kỷ niệm một trận chiến, một quận công bên Anh Quốc đã làm một bữa tiệc khoản đãi một nhóm cựu sĩ quan đã từng chiến đấu sát cánh bên ông.

Trong bữa tiệc, ông đem khoe một cái bật lửa rất đẹp mà Nữ hoàng Anh đã tặng cho ông. Cái bật lửa đã được truyền từ tay người này đến tay người nọ để được trầm trồ khen ngợi.

Sau bữa ăn, mọi người được mời ra phòng khách để uống trà. Ông quận công mới đem thuốc lá ra mời mọi người. Nhưng mặt ông bỗng biến sắc, vì ông lục lạo mãi trong túi áo mà vẫn không tìm ra cái bật lửa. Ông hỏi quan khách có ai thấy nó ở đâu không. Mọi người chia nhau đi tìm khắp nơi mà tuyệt nhiên vẫn không thấy cái bật lửa. Lúc bấy giờ, một viên sĩ quan mới đề nghị cho tất cả mọi quan khách nên lật túi áo của mình ra may ra mới có thể tìm thấy nó chăng. Lần lượt tất cả mọi người đều kéo tất cả những gì có trong túi áo của mình ra. Duy chỉ có một người không chịu chấp nhận công việc này. Mọi người đều đưa mắt nhìn về ông và ai cũng đoán chắc đây là người đã đánh cắp cái bật lửa, bởi vì dáng vẻ của ông tiều tụy, áo quần của ông lại rách rưới. Ông lấy danh dự của một cựu sĩ quan để thề thốt và dứt khóat không mở túi áo ra cho mọi người xem.

Vài tuần lễ sau, ông quận công lại mở một bữa tiệc khác và lần này, ông khám phá ra cái bật lửa trong túi áo của ông. Cảm thấy xấu hổ vì đã nghi oan cho một viên sĩ quan đã từng chiến đấu bên cạnh mình, ông quận công đã quyết định đến thăm anh ta để xin lỗi.

Nhà của viên cựu sĩ quan này nằm trong khu phố lầy lội nghèo nàn. Sau khi đã xin lỗi, ông quận công đã hỏi viên sĩ quan: "Tại sao trong bữa tiệc hôm đó, anh đã khước từ không mở túi ra cho mọi người xem?".

Anh ta mới giải thích như sau: "Hẳn ngài đã thấy được căn nhà tôi đang ở tồi tàn như thế nào. Từ lâu, tôi đã thất nghiệp mà vẫn phải nuôi nhiều miệng ăn trong nhà. Ngài đâu có biết rằng hôm đó, tôi đã nhét vào túi tôi tất cả những đồ ăn thừa trên bàn để mang về cho vợ con tôi".

Sau khi hiểu được hoàn cảnh đáng thương của một người đã từng vào sinh ra tử với mình, ông quận công quyết định đền bù bằng cách tìm cho viên cựu sĩ quan một công việc xứng đáng.

Câu chuyện đáng thương tâm trên đây có lẽ cũng diễn ra trong cuộc sống chúng ta dưới nhiều cấp độ và hình thức khác nhau. Nhưng tựu trung, có lẽ mẫu số chung của câu chuyện ấy thường giống nhau: đó là chúng ta dễ nhìn và đoán xét người theo bề ngoài. Lại nữa, một xã hội có quá nhiều lừa gạt đảo điên cũng khiến cho chúng ta có thái độ e dè, nghi kỵ đối với những người thân thuộc.

Là tín hữu, chúng ta hãy nhìn ngắm cung cách cư xử của Chúa Giêsu. Ngài không nhìn người bằng nhãn hiệu có sẵn. Ngài không đến với người bằng những định kiến. Bên kia bộ quần áo sang trọng hay rách rưới, Chúa Giêsu chỉ nhìn thấy hình ảnh cao quý của chính Thiên Chúa. Ngài dành yêu thương cho những người nghèo khổ, phường thu thuế, bọn gái điếm, những kẻ tội lỗi, những con người bị xã hội đẩy ra bên lề. Ngài muốn cho mọi người thấy rằng Ngài chỉ có một cái nhìn duy nhất về con người: đó là cái nhìn của cảm thông, của tha thứ, của yêu thương.


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Hai, 24 tháng 5, 2010

LẼ SỐNG 24.5

24 Tháng Năm
Lòng Tham Không Ðáy

Hôm ấy, trời vừa rạng đông, một ông hoàng nói với tên đầy tớ: "Xem chừng anh mơ ước giàu lắm. Vậy từ giờ này cho tới lúc mặt trời lặn, anh có sức ngần nào thì cứ chạy. Tất cả những ruộng vườn anh chạy vòng quanh được, tôi vui lòng nhường lại cho anh hết".

Sướng quá! Cha chết sống lại cũng không bằng.

Tức thì chàng cắm đầu chạy, chạy vùn vụt như Hạng Vũ trên lưng con ngựa Ô-Truy. Chín mười tiếng đồng hồ qua, chàng ta làm chủ được mấy cánh đồng bao la mù mịt. Chàng vừa dừng chân, thì một khu rừng mơn mởn hiện ra trước mắt cám dỗ chàng. Không kịp thở, chàng lại cắm đầu chạy tiếp, chạy một vòng dài nữa.

Vừa dừng chân, lại một hồ cá mênh mông, với mặt nước trong ngần, huyền ảo phản chiếu ánh mặt trời đã xế chiều. Lại một vòng nữa... Sau cùng, màn đêm đã phủ xuống trên nẻo đường đi. Chàng hổn hển quay bước trở về nhà, để làm bậc tỉ phú với "Ruộng vườn mặc sức chim bay, biển hồ lai láng mặc bầy cá đua".

Nhưng vừa bước chân qua ngưỡng cửa, chàng ngã lăn xuống đất bất tỉnh. Vợ con vội vàng thuốc thang săn sóc... Nhưng vô hiệu. Nhà tỉ phú đã trút linh hồn sau một ngày dài lao lực quá sức. Người ta đào cho chàng một chỗ nghỉ trong lòng địa cầu, vừa dài vừa rộng, nhưng không quá ba tấc đất.

Ðiểm qua những câu chuyện cổ kim về lòng tham, chúng ta rút ra được bài học gì?... Chắc có người tự hỏi: sống trong thời củi quế gạo châu, chạy ăn từng bữa này làm gì có nhiều của mà tham với lam. Như những anh ăn mày cũng gắn bó với manh chiếu rách, với chiếc áo tơi đến độ có thể "ăn thua đủ" với những ai đánh cắp.

Lòng tham không cần bị nhiều cám dỗ mới nổi tính tham. Vì thế đức tính đầu tiên chúng ta cần phải tập là tinh thần từ bỏ, dùng của cải như những phương tiện chứ không phải như mục đích. Bước thứ hai là tập cho có quan niệm: chúng ta chỉ là những người quản lý chứ không phải là chủ nhân những của cải vật chất và có như thế chúng ta mới dễ dàng tiến thêm bước thứ ba: sẵn sàng chia sẻ với những người cần thiết hơn. Không cần phải đợi có tiền muôn bạc vạn mới chia sẻ. Hạt muối cắn hai mới thật sự sưởi ấm lòng người và công đức trước mặt Thiên Chúa.


Trích sách Lẽ Sống

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT CTT HIỆN XUỐNG (Ga 20, 19-23)

LẼ SỐNG 23.5

23 Tháng Năm
Chết Vì Niềm Tin

Một sĩ quan quân đội Nga đến gặp một vị mục sư Hungari và xin được được nói chuyện riêng với ông. Viên sĩ quan là một chàng trai trẻ, tướng khí hung hãn và dương dương tự đắc trong tư thế của kẻ chiến thắng.

Khi cửa phòng khách đã được đóng lại rồi, viên sĩ quan chỉ cây thánh giá treo trên tường và nói với vị mục sư rằng: "Ông biết không, cái đó là sự dối trá do các mục sư bày đặt ra để làm mê hoặc đám dân nghèo, để giúp những người giàu dễ dàng kiềm hãm họ trong tình trạng ngu dốt. Bây giờ chỉ có tôi và ông, ông hãy thú nhận với tôi rằng: ông không hề bao giờ tin rằng Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa".

Vị mục sư cười và trả lời rằng: "Ông bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật". "Ông đừng có lừa dối tôi, cũng đừng giễu cợt tôi", vị sĩ quan hét lên. Anh ta rút ra một khẩu súng lục, chĩa vào vị mục sư và hăm dọa: "Nếu ông không nhận rằng đó chỉ là một sự dối trá, thì tôi sẽ nổ súng".

Vị mục sư điềm tĩnh trả lời: "Tôi không thể nói như thế, vì không đúng. Ðức Giêsu thật sự là Con Thiên Chúa".

Viên sĩ quan vứt khẩu súng xuống sàn và chạy đến ôm vị mục sư. Anh ta vừa khóc vừa nói: "Ðúng thế, đúng thế. Tôi cũng tin như vậy, nhưng tôi không thể tin rằng có những người dám chết vì Ðức tin cho đến khi chính tôi khám phá ra điều này. Tôi xin cám ơn Ngài. Ngài đã củng cố lòng tin của tôi. Bây giờ chính tôi cũng có thể chết cho Ðức Kitô. Ngài đã chứng minh cho tôi rằng: Ðiều này có thể làm được".

"Các vị tử đạo nhắc nhở chúng ta rằng: chết vì niềm tin là hồng ân được trao ban cho thiểu số, nhưng trong niềm tin là ơn gọi của mọi tín hữu".

Cộng đồng Vatican II đã mở ra một kỷ nguyên mới, đã mang đến cho Hội Thánh và mỗi tín hữu một mùa xuân mới, đã nêu bật và tạo cho mọi tín hữu nhiều cơ hội để biểu lộ niềm tin qua hành động: Sống đạo và Hành đạo. Nhờ quan niệm này, Ðạo đã không bị giới hạn trong nhà thờ và trong những giờ kinh, nhưng Ðạo và Niềm tin đã được đem ra Sống và Thức hành trong mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh sống.

Nhưng câu vấn nạn thường gây ra nhiều thắc mắc vẫn là: sống niềm tin và thực hành trong niềm tin nào?

Quan trọng nhất có lẽ là tin vào Thiên Chúa tình yêu. Ðối với mỗi người trong chúng ta Thiên Chúa tình yêu này có một chương trình để dẫn dắt chúng ta đi trong tin yêu và đạt được tình yêu hoàn hảo. Rồi bước thứ hai là thực hành tình yêu với câu hỏi đơn sơ: nếu Chúa là tôi, thì trong hoàn cảnh cụ thể này, Ngài sẽ xử trí và hành động như thế nào?


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Bảy, 22 tháng 5, 2010

LẼ SỐNG 22.5

22 Tháng Năm
Thiên Chúa Tạo Dựng Con Người

Người Ấn Ðộ thường kể câu chuyện ngụ ngôn về việc sáng tạo con người như sau: Một hôm Thiên Chúa quyết định tạo dựng con người, nghĩa là làm một tạo vật đẹp nhất giữa các tạo vật. Dĩ nhiên, khi Thiên Chúa vừa công bố quyết định, các Thiên thần đã tỏ ra không mấy hồ hởi, một phần vì ganh tị, một phần vì không thể chấp nhận được một ý tưởng xem ra quá kỳ cục ấy. Làm sao tưởng tượng được một thụ tạo vừa thuộc về hạ giới, lại vừa tham dự vào đời sống thần linh. Làm sao có được một hữu thể vừa là một mảnh của thời gian, lại vừa mang tính vĩnh cửu? Làm sao chấp nhận được giữa vật chất và tinh thần?

Các Thiên Thần không thể tưởng tượng được rằng Thiên Chúa có thể tạo dựng được một tạo vật như thế. Các vị e ngại rằng ý tưởng ấy sẽ hạ giảm quyền năng và sự khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa.

Ðể ngăn chặn Thiên Chúa trong ý định của Ngài, các Thiên Thần mới bầu ra một ủy ban. Sau nhiều ngày ráo riết làm việc, ủy ban đã soạn xong một kiến nghị đệ trình lên Chúa gồm những điểm như sau: tinh thần không thể kết hợp với vật chất, bản tính thiên thần không thể kết hợp với bản tính thú vật, cái có cùng không thể hòa hợp với cái không cùng, cái chóng qua đi không thể đi đôi với điều vĩnh hằng, do đó yêu cầu Thiên Chúa hãy từ bỏ ý định điên rồ của Ngài.

Sau khi đọc kỹ bản kiến nghị, Thiên Chúa đưa ra phán quyết như sau: "Tất cả những góp ý của các người đều hợp lý. Nhưng điều ta sắp thực hiện không phải là một vấn đề triết học". Các Thiên Thần đều nhao nhao hỏi: "Vậy thì vấn đề đó là gì?". Sau một hồi thinh lặng, Thiên Chúa chậm rãi đáp: "Con người là vấn đề của Niềm Tin". Ngài thinh lặng, rồi phán quyết: "Con người là vấn đề của Niềm Tin".

Trong một xã hội được xây dựng trên luật của cá lớn ăn hiếp cá bé, trong một xã hội mà nền tảng đã bị đục khoét bởi lọc lừa, gian trá, phản bội, đố kỵ, hận thù, con người dễ mất đi niềm tin nơi con người, bởi vì khi không tin ở người, con người cũng không còn tin ở chính mình. Một cuộc sống như thế chẳng khác nào một cuộc tự hủy, một cuộc tự sát tập thể.

Thiên Chúa yêu thương mọi người. Ngài tiếp tục tin tưởng nơi con người, Ngài cũng mời gọi chúng ta tin tưởng nơi con người... Thay vì tự giam hãm trong khép kín, trong đố kỵ, chúng ta hãy ra khỏi chính mình để đến với người... Ðến với người bằng sự thông cảm tha thứ, cho dẫu chúng ta chỉ gặp toàn những lừa đảo phản bội. Ðến với người bằng những san sẻ sớt chia, cho dẫu chúng ta chỉ toàn gặp những bội bạc, vong ân. Ðến với người bằng tiếng cười rộn rã, cho dẫu chúng ta chỉ gặp toàn đắng cay, sầu muộn.


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Sáu, 21 tháng 5, 2010

LẼ SỐNG 21.5

21 Tháng Năm
Ðôi Cánh Con Tuấn Mã

Hai người bạn thân ngồi bên nhau dưới một bóng cây cổ thụ. Cả hai đều đưa mắt nhìn về cánh đồng trước mặt, nhưng mỗi người một ý nghĩ.

Người có dáng vẻ đầy nghị lực, cái nhìn cương quyết, thốt lên như sau: "Một cảnh vật phẳng lặng và độc điệu như thế này quả thực là nhàm chán. Tôi sẽ rời bỏ ngôi làng nhỏ bé này để làm một vòng du lịch cho biết đó biết đây".

Người bạn khác với dáng điệu mảnh khảnh ít nói, mỉm cười nhìn vào phong cảnh xung quanh rồi nói: "Tôi cũng có một con tuấn mã. Từ bao lâu nay, tôi đã đi lại không biết bao nhiêu nơi rồi".

Hai người chia tay nhau và hẹn cũng gặp lại dưới bóng cây cổ thụ để kể cho nhau nghe những cuộc du lịch của mình.

Sau một năm, họ lại gặp nhau... người thứ nhất kể chuyện: "Trong một năm qua, hầu như nơi nào tôi cũng đã đặt chân đến. Tôi đã đi xuống biển, lên ngàn, vượt đèo, qua suối. Tôi đã gặp không biết bao nhiêu người. Tôi đã học được bí quyết kiếm được nhiều tiền... Giờ đây, tôi trở nên giàu có. Tôi sẽ tiếp tục đi du lịch... Còn bạn, bạn đã đi được nơi nào trong suốt năm qua?".

Người bạn chưa từng rời bỏ ngôi làng của mình đã trả lời: "Tôi đã lên trời, tôi đã bay lượn trên các tầng mây. Tôi đã đến đô thị của mặt trời". Nghe thế, người kia thắc mắc: "Phải chăng con tuấn mã của anh bay được?". Con người có tâm hồn thi sĩ trả lời: "Ðúng thế, con ngựa của tôi có đôi cánh. Nó đưa tôi lên tất cả những nơi nào tôi muốn. Mắt tôi nhìn thấy được muôn kỳ công của vũ trụ. Tai tôi nghe được muôn điệu nhạc của thiên nhiên... Ðối với anh, sự giàu có nằm trong của cải vàng bạc. Nhưng đối với tôi, của cải chính là đôi mắt của tâm hồn tôi. Cho dẫu một năm qua, tôi chỉ ngồi dưới bóng cây cổ thụ này, cho dẫu quang cảnh trước mặt tôi chỉ là cánh đồng phẳng lặng này, nhưng tâm hồn tôi nhìn thấy muôn nghìn cảnh đẹp của thiên nhiên, tai tôi có thể nghe được bao nhiêu điệu nhạc của thiên nhiên mà anh không thể nghe được".

Người có tâm hồn nghệ sĩ có những rung cảm mà người khác không có. Họ nhìn thấy, họ lắng nghe được những điều mà người khác không cảm nhận được. Cũng thế, người có đôi mắt Ðức tin có thể nhìn thấy các giá trị mà người khác không nhìn thấy. Ðôi mắt Ðức tin giúp chúng ta cảm nhận được sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa trong vũ trụ, trong lịch sử, trong con người. Ðôi mắt Ðức tin ấy giúp chúng ta thấy được giá trị của cuộc sống độc điệu, của những hy sinh âm thầm hằng ngày. Ðôi mắt Ðức tin ấy giúp chúng ta thấy được lẽ khôn ngoan trong những điều người đời cho là điên dại, sức mạnh trong những cái yếu đuối. Ðức tin ấy giúp chúng ta nhìn thấy ánh sáng trong tăm tối, sự sống trong cái chết, ân sủng trong tội lỗi.


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Năm, 20 tháng 5, 2010

LẼ SỐNG 20.5

20 Tháng Năm
Kẻ Ăn Cắp Một Ổ Bánh Mì

Người ta thường kể về một trong những ông thị trưởng đầu tiên của thành phố New York bên Hoa Kỳ giai thoại như sau: một ngày mùa đông lạnh buốt nọ, ông thị trưởng phải chủ tọa các phiên tòa. Người ta điệu đến trước mặt ông một ông lão quần áo tả tơi. Người đàn ông này bị tố cáo là đã ăn cắp một mẩu bánh mì. Lời tự biện hộ duy nhất mà người đàn ông khốn khổ đưa ra là: "Gia đình tôi đang chết đói".

Nghe xong lời cáo buộc của cử tọa cũng như lời biẹn bạch của ông lão, viên thị trưởng đưa ra phán quyết như sau: "Luật pháp không tha thứ cho bất cứ một hành động xấu nào. Tôi thấy cần phải trừng phạt ông, và hình phạt cho tội ăn cắp là ông phải đóng 10 đô la". Vừa công bố bản án, ông thị trưởng rút trong túi của mình ra 10 đô la và trao cho ngưòi đàn ông khốn khổ. Quay xuống cử tọa ông nói tiếp: "Ông lão đã bồi thường vì tội ăn cắp của ông. Còn phần quý vị, tôi yêu cầu mỗi người phải đóng 50 xu tiền phạt vì sống dửng dưng đến độ để cho trong thành phố của chúng ta còn có một người nghèo phải đi ăn cắp". Nói xong, ông ra lệnh cho viên biện lý đi thu tiền và trao tất cả cho ông lão.

Khi chiếc mũ đã được truyền một vòng tòa án và trở về tay mình, ông lão đếm được tất cả 47 đô la 50 xu.

Trong sứ điệp Mùa Chay năm 1991, Ðức thánh Cha Gioan Phaolô II mời gọi chúng ta hãy đọc và suy ngẫm về bài dụ ngôn người giàu có và Lazarô.

Mới nghe qua, chúng ta có cảm tưởng người giàu có trong bài dụ ngôn đã không làm điều gian ác nào để đến độ phải bị trầm luân. Chúa Giêsu đã không nói: ông đã trộm cướp, hay biển lận hoặc gian xảo trong việc làm ăn. Ngài cũng không kết án việc ông ngày ngày yến tiệc linh đình.

Vậy thì đâu là tội của người phú hộ? Thưa đó là tội dửng dưng trước nỗi khổ của người khác. Chúa Giêsu nói đến sự hiện diện ngày qua ngày của một người khốn khổ trước cửa nhà ông để cho chúng ta thấy sự đang tâm làm ngơ của người giàu có... Máu chảy, ruột mềm. Trước cảnh khốn khổ của người đồng loại, mà người giàu có ấy vẫn không biểu lộ một chút xúc động hoặc làm như không nhìn thấy, thì quả thật không gì đáng trách bằng, bởi vì người giàu có đã làm cho trái tim của mình khô cứng.

Dửng dưng trước nỗi khổ của người khác không là một thái độ vô thưởng vô phạt, mà là một hành động tội ác. Ông thị trưởng thành phố New York trong câu chuyện trên đây quả thực đã thấy được tội ác của chính ông và của thị dân của ông đối với lão ông ăn cắp bánh mì.


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Tư, 19 tháng 5, 2010

LẼ SỐNG 19.5

19 Tháng Năm
Tôi Chết Thay Cho Thầy Tôi

Một tu sĩ Hồi Giáo nọ quy tụ được 60 môn sinh. Sau một thời gian giáo huấn họ, ông quyết định như sau: Ta thấy đã đến lúc phải làm một cuộc hành trình mới. Ta không biết những gì sẽ xảy ra cho thầy trò chúng ta. Các ngươi hãy tuân giữ các điều ta đã truyền dạy cho các ngươi. Hãy nhớ điều này: trong bất cứ lúc nào, hễ ta giơ tay lên trời thì các ngươi hãy hô lớn: "Tôi chết thay cho thầy tôi".

Ðám môn sinh nhận thấy không thể chấp nhận được một đề nghị xem ra điên rồ như thế, cho nên 59 người đã bỏ cuộc trở về với nếp sống cũ của họ. Chỉ có một người chấp nhận điều kiện và quyết tâm đi theo thầy mình cho đến cùng. Hai thầy trò lên đường mà không biết đi về đâu. Họ đi mãi cho đến lúc tới một thành phố do một bạo chúa cai trị. Không bao lâu thì họ vào thành phố, ông bạo chúa đã ra lệnh cho các binh lính như sau: "Các ngươi hãy bắt giữ lấy tên du thử du thực đầu tiên và điệu đến đây cho ta. Ta muốn treo cổ hắn để làm một bài học cho bọn vô lại trong thành phố này".

Thế là bọn lính đã đến bắt người đệ tử của vị tu sĩ và điệu đến trước mặt bạo chúa. Giữa lúc cuộc hành quyết sắp bắt đầu, thì vị tu sĩ mới xuất hiện giữa đám đông và hô lớn: "Thưa quan lớn, xin hãy giết tôi, vì chính tôi là người đã dụ dỗ thanh niên này bỏ nhà ra đi để sống kiếp sống lang thang như tôi". Nói xong ông giơ tay lên trời.

Vừa thấy cử chỉ ấy của vị thầy, người thanh niên mới gào lên: "Thưa quan lớn, tôi muốn chết thay cho thầy tôi".

Quan bạo chúa nghe thế, mới hỏi các viên cố vấn của mình như sau: "Họ là ai mà sẵn sàng chết thay cho nhau?". Quan bạo chúa mới cho điệu vị tu sĩ đến trước mặt và yêu cầu giải thích cho cặn kẽ về mối tương quan giữa thầy trò.

Vị tu sĩ Hồi Giáo mới bình tĩnh phát biểu như sau: "Thưa quan lớn, chúng tôi có nghe nói rằng bất cứ ai được giết trong thành phố này đều được phúc trường sinh bất tử. Dĩ nhiên, nghe biết như thế, cho nên thầy trò chúng tôi mới hăm hở đến đây để được chết như thế".

Nghe thế, quan bạo chúa mới mỉm cười, rồi ra lệnh trả tự do cho họ. Người môn sinh chợt hiểu được rằng ai hy sinh mạng sống mình thì sẽ tìm lại được nó.

Cái chết của Ðức Kitô trên thập giá đều là vô nghĩa, nếu cái chết đó không phải là cái chết cho mọi người. Thập giá của Ðức Kitô sẽ chỉ là một ô nhục, nếu thập giá đó không là biểu trưng của tình yêu, sự hy sinh.

Bước theo Ðức Kitô trong cuộc tử nạn, vác lấy thập giá và đi theo Ngài không là một việc làm nhiệm ý và tùy hứng, nhưng là đòi hỏi thiết yếu của ơn gọi Kitô. Con đường của Ðức Kitô chính là con đường của tình yêu, của hy sinh hiến thân cho người khác.


Trích sách Lẽ Sống

LỜI CHỦ CHĂN THÁNG 6.2010


Hồng Y GB. Phạm Minh Mẫn
T3, 18/05/2010 - 09:23

LỜI TẠ ƠN VÀ NGUYỆN CẦU


Kính gởi linh mục, tu sĩ, giáo dân trong gia đình giáo phận
Anh chị em rất thân mến,


1. Năm Linh Mục khai mạc ngày 19.6.2009 và bế mạc ngày 19.6.2010. Vào ngày lễ kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, thứ Sáu 11.6.2010, chúng tôi muốn đánh dấu thời điểm sắp kết thúc Năm Linh Mục này bằng nghi lễ trao tác vụ linh mục cho một số phó tế triều - dòng, đồng thời bằng việc quy tụ cha mẹ của các linh mục đang lo mục vụ trong giáo phận. Quy tụ để cùng nhau tạ ơn Chúa đã thương gieo nhiều hạt giống ơn gọi linh mục trên thửa đất gia đình giáo phận. Đồng thời để đại diện gia đình giáo phận bày tỏ lòng chân thành biết ơn đối với các gia đình ông bà cố đã quảng đại cống hiến những người con thân yêu chăm sóc vườn nho của Chúa, và đã dày công vun tưới cho các hạt giống ơn gọi linh mục phát triển bằng đời sống chuyên cần cầu nguyện, cùng những hy sinh và mồ hôi nước mắt.

2. Chúng tôi cũng mong muốn các tân linh mục cùng tất cả các linh mục biến thời điểm kết thúc Năm Linh Mục này thành khởi điểm cho một hành trình mới. Hành trình bước theo Vị Mục Tử nhân lành trên con đường tình yêu cứu độ, tình yêu hội nhập và dấn thân phục vụ, tình yêu hy sinh và đổi mới phận người của mọi người.

3. Trong hành trình trên đường tình yêu cứu độ, có lúc linh mục, giống như Chúa Kitô, bước đi trong đêm tối của những thử thách gian truân. Chúng ta hãy luôn cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn soi sáng và trợ giúp cho các linh mục, đặc biệt khi gặp sự cố trong cuộc đời mục tử, biết dùng ánh sáng Lời Chúa và sức mạnh Chúa Thánh Thần, biến sự cố thành cơ hội mở đường cho bản thân cùng mọi người kiên trì bước đi trong ánh sáng chân lý và tình thương của Chúa Kitô, khiêm tốn phục vụ cho sự sống cùng sự phát triển của mọi người anh em đồng đạo, đồng bào và đồng loại.

4. Xin anh chị em hãy chuyên cần cầu nguyện cho các giám mục cùng các mục tử đang phục vụ cho anh chị em cũng được như vậy.

Gioan B. Phạm Minh Mẫn + Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Giám mục của anh chị em

Kinh cầu hằng ngày cho linh mục

Lạy Chúa là Cha trên trời, - chúng con tạ ơn Cha đã thương ban cho Giáo Hội tại Việt Nam - nhiều linh mục chăm sóc đoàn Dân Chúa. Xin Cha thương gìn giữ và bảo vệ các linh mục - vượt qua đêm tối của gian truân và thử thách. Xin Cha ban ơn đổi mới cho các linh mục - ngày càng trở nên mục tử như lòng Cha mong muốn.

Xin Cha thương ban ơn soi sáng các linh mục biết mở rộng tâm trí đón nhận Lời Chúa, - là Lời ban ánh sáng chân lý và sức sống mới, - là Lời nuôi dưỡng tâm tình, tư tưởng và con tim mục tử của linh mục, - để cuộc đời linh mục toả sáng lòng từ ái bao dung của Vị Mục Tử nhân lành đối với mọi người, - nhất là người nghèo khổ và bị bỏ rơi.

Xin Cha thương ban ơn trợ giúp cho các linh mục – biết luôn gắn bó với Chúa Giêsu Thánh Thể, - biết mở rộng con tim tiếp nhận nguồn lực tình yêu hiệp nhất và khiêm tốn phục vụ, - để qua đời sống cùng sứ vụ linh mục, - Dân Chúa cảm nhận Chúa đang đồng hành với họ, - soi đường dẫn lối cho họ đi đến Nguồn Chân Lý tròn đầy, - tiến đến Suối Tình Yêu vô biên và Mạch Sống dồi dào.

Nhờ Lời cầu bầu của Thánh Mẫu La Vang - cùng các thánh Tử đạo Việt Nam - xin Cha thương giúp sức cho các linh mục - biết quy tụ mọi người trong yêu thương và an bình, - chung sức xây dựng Giáo Hội thành muối men và ánh sáng Tin Mừng cứu độ, - cho cộng đồng dân tộc cùng thế giới hôm nay. Amen


Thứ Ba, 18 tháng 5, 2010

LẼ SỐNG 18.5

18 Tháng Năm
Cánh Diều

Người Rumani nói về nguồn gốc của trò chơi thả diều bằng mẩu chuyện như sau:

Tại một làng kia, có một người nghèo mà ai cũng gọi là Cob. Cob là một tên gọi không mấy thanh cao trong ngôn ngữ Rumani. Người ta gọi ông bằng tên ấy vì cái miệng sún răng cũng như đôi chân khập khiễng của ông. Con người có dáng vẻ xấu xí ấy lẽ dĩ nhiên chỉ có thể là một người nghèo mà thôi. Không vợ, không con, ông Cob lầm than như tất cả những người nghèo khác. Ði đến đâu, ông cũng trở thành trò đùa cho mọi người. Vậy mà con người ấy không hề than thân trách phận hoặc tỏ ra giận dữ, buồn phiền mỗi khi bị chọc ghẹo.

Cả đời, ông chỉ có mỗi một băn khoăn: là chưa hề làm một việc thiện cho người khác. Ông yêu người, ông muốn tặng thật nhiều quà cho mọi người. Nhưng ông cảm thấy mình quá nghèo để có thể thực hiện được giấc mơ ấy. Ông thường tự nhủ: "Bệnh tật, đau yếu, khốn khổ, chết chóc, đó là số phận chung của mọi người. Ai không nhỏ lệ thì cũng khóc thầm trong lòng. Nước mắt là cơm bữa của loài người. Do đó, cần phải làm cho con người phấn khởi, vui tươi". Nghĩ thế, ông trình bày lên Chúa ước nguyện như sau: "Xin Chúa cho con có thể mang lại cho những người đau khổ một quà tặng".

Một quà tặng cho nhân loại đau khổ, nhưng ông Cob vẫn không biết món quà đó phải như thế nào. Trong khi chờ đợi, mỗi lần bị cười chê, mỗi lần bị đem ra làm trò cười, ông vẫn tươi cười với ý nghĩ rằng: "Ít ra mình cũng làm cho người vui".

Sau một thời gian suy nghĩ, cuối cùng ông Cob mới tìm ra được món quà tặng mà ông sẽ mang lại cho nhân loại đau khổ: đó là một cánh diều bay lơ lửng trên không.

Nghĩ đó là sự linh ứng của Chúa, ông Cob đi nhặt tất cả những gì cần thiết để làm một cánh diều. Ông miệt mài cắt xén, sơn vẽ để hoàn thành được một cánh diều óng ả, sáng chói như một đĩa bay.

Khi cánh diều gặp gió bay cao, cả dân làng kéo nhau ra cánh đồng để nhìn ngắm cánh diều của ông Cob. Mọi người đưa mắt nhìn lên không trung và quên hẳn những nhọc nhằn của cuộc sống. Ðó là quà tặng mà người khốn khổ nhất của ngôi làng đã mang lại cho người đồng loại của mình.

Một tác giả nào đó đã nói: "Trái tim không phải là một món hàng để mua bán, mà là một món quà để trao tặng". Một trái tim không biết trao tặng là một trái tim chết.

Sự giàu có và nghèo nàn có thể phân biệt con người thành giai cấp thứ bậc. Có người tiền rừng bạc biển, có người nghèo rớt mòng tơi. Nhưng mỗi người chỉ có một quả tim, và quả tim đó lẽ ra phải giống nhau, bởi vì người ta không thể cân lường được quả tim. Do đó, quà tặng xuất phát từ quả tim đều vô giá. Giá trị của món quà không hệ tại ở số lượng của tiền của, mà ở quả tim được gói gém trong món quà.

Chúa Giêsu đã nhìn thấy qủa tim mà người đàn bà góa đã gói trọn trong một đồng xu nhỏ dâng cúng đền thờ. Nhân vật Cob trong câu chuyện của người Rumani trên đây đã đặt tất cả con tim của mình vào cánh diều để làm vui cho con người.

Một ánh mắt, một nụ cười, một lời nói an ủi, một bàn tay nâng đỡ, đó là bao nhiêu quả tim mà con người có thể trao tặng cho nhau. Và có thể là những món quà cao quý nhất mà những người xung quanh đang chờ đợi nơi chúng ta.


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Hai, 17 tháng 5, 2010

LẼ SỐNG 17.5

17 Tháng Năm
Ði Một Ðoạn Ðường Với Chúa

Người Ấn Ðộ có kể một câu chuyện ngụ ngôn như sau: Có một người thanh niên nọ khao khát được nhìn thấy Chúa. Ðêm ngày, anh cầu nguyện liên lỉ chỉ mong sao cho ước nguyện của mình thành sự thật. Quả thực, không bao lâu, Thiên Chúa đã đến với anh dưới hình dạng của một con người đẹp đẽ, uy quyền, trầm tĩnh.

Chúa đề nghị với anh: "Con có thể đi với Ta một quãng đường không?". Người thanh niên cảm thấy hạnh phúc hơn bao giờ hết. Chúa và anh đồng hành với nhau như một đôi bạn tri âm. Ði một lúc, Chúa dừng lại nói với anh: "Ta khát nước, con có thể đi tìm cho Ta một ít nước không?".

Người thanh niên hăm hở đi tìm nước. Lòng anh tràn ngập hạnh phúc. Còn gì sung sướng bằng đi tìm nước để mang về cho Chúa... Nhưng, anh đi tìm mãi mà không thấy nơi nào có nước... Anh đi mãi để rồi cuối cùng dừng lại bên một bờ sông. Anh đang chuẩn bị lấy nước mang về cho Chúa, thì tình cờ một cô gái đẹp xuất hiện bên bờ sông. Cô gái đẹp đến độ người thanh niên không còn thấy cảnh vật xung quanh, cũng như không còn nghĩ đến việc mang nước về cho Chúa.

Anh nấn ná đến làm quen với cô gái. Họ thương nhau, lấy nhau và sinh được nhiều con cái. Không gì đầm ấm, hạnh phúc cho bằng. Nhưng một cơn ôn dịch xảy đến. Người thanh niên đưa vợ con đi đến một nơi khác. Nhưng khi họ đi qua một chiếc cầu, thì thình lình mưa gió thổi đến, nước dâng lên kéo cả vợ con anh theo. Người đàn ông bám vào được một gốc cây lớn. Anh khóc thương cho thân phận bọt bèo của vợ con cũng như chính kiếp cô đơn lạc loài của anh.

Giữa lúc đó, Thiên Chúa xuất hiện trước mặt anh: Ngài mỉm cười hỏi anh: "Này con, con có mang nước về cho Ta không? Con làm gì để Ta phải chờ đợi gần cả tiếng đồng hồ".

Một người cha nhân từ mòn mỏi trông đứa con hoang trở về: đó là hình ảnh cảm động nhất về Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta trong bài dụ ngôn "Người Con Hoang Ðàng". Từng ngày, người cha ra đầu ngõ để trông đợi. Khi đứa con còn ở đằng xa, ông đã chạy đến để dang rộng đôi cánh tay ôm trọn đứa con vào lòng, không một lời quở trách, không một cử chỉ bất bình... Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Chúng ta tưởng mình đi tìm Ngài, chúng ta tưởng Ngài ẩn mặt với chúng ta. Nhưng kỳ thực, chính Ngài mới là Ðấng đeo đuổi chúng ta, tìm kiếm chúng ta, chờ đợi chúng ta. Chúng ta tưởng mình đang đi đến với Chúa, nhưng kỳ thực chính Ngài đang ở với chúng ta.


Trích sách Lẽ Sống

Chủ Nhật, 16 tháng 5, 2010

LẼ SỐNG 16.5

16 Tháng Năm
Cái Hôn

Hãng thông tấn AFP của Pháp trong bản tin ngày 23/01/1991 đã ghi một mẩu chuyện lạ như sau:

Một phụ nữ Brazil đã lợi dụng cái hôn để cắn và nuốt mất khúc lưỡi của người yêu. Bà cho biết: làm như thế là để trả thù người đàn ông vì đã đánh đập, hành hạ bà.

Cảnh sát tại thành phố Salvador de Bahia, mạn đông bắc Brazil cho biết như sau: Lucia bị người yêu là ông Djalm dos Santos, 47 tuổi, đã đánh đập, hành hạ thậm tệ. Nàng kiên nhẫn chờ đợi cơ hội. Hôm 22/01/1991, ông Djalm đến thăm Lucia để xin lỗi. Cô ta liền nhảy xổ vào người yêu, ôm hôn ông một cách rất tình tứ, không cho ông có thì giờ để giải thích.

Hai người đang hôn nhau, thì đột nhiên, Lucia cắn đứt một phần lưỡi của Djalim và nuốt luôn vào bụng để người ta không thể vá lại khúc lưỡi đã bị mất.

Người đàn ông được đưa vào bệnh viện cấp cứu. Nhưng theo các bác sĩ điều trị, ông ta sẽ không bao giờ có thể nói lại một cách bình thường được, vì đã mất một khúc lưỡi.

Ông Djalm than thở như sau: "Ðây là nụ hôn thê thảm nhất trong đời tôi. Ðó thật là nụ hôn của Giuda".

Cái hôn có nhiều hình thức và ý nghĩa khác nhau.

Có cái hôn của các nhà lãnh đạo tôn giáo, chính trị để nói lên tình hữu nghị, sự hòa giải. Có cái hôn bình an của các tín đồ của một tôn giáo. Có cái hôn dạt dào thương mến giữa cha mẹ và con cái. Có cái hôn nồng cháy dục tình giữa đôi tình nhân hay vợ chồng.

Tựu trung, trong cái hôn nào cũng có hai yếu tố: yếu tố hữu hình là sự tiếp giáp giữa hai thân xác qua môi miệng và yếu tố vô hình mà cái hôn muốn diễn tả như tình liên đới, hữu nghị, sự hòa giải, tình mẫu tử, tình yêu lứa đôi. Cái hôn sẽ trở thành đồng nghĩa với sự phản bội khi nó tước đoạt khỏi yếu tố vô hình trên đây. Ðó là trường hợp cái hôn của người đàn bà Brazil trên đây.
Nhưng điển hình nhất của cái hôn phản bội vẫn là cái hôn Giuda dành cho Chúa Giêsu. Ðiều bỉ ổi nhất trong cái hôn của Giuda chính là dùng một cử chỉ của tình thân như một dấu hiệu của sự bán nộp.

Cái hôn của Giuda được lập lại khi người ta dùng những chiêu bài cao đẹp để che đậy những ý đồ đen tối. Cái hôn của Giuda được lập lại khi người ta nhân danh nhân nghĩa, nhân danh phục vụ, nhân danh người nghèo để kiếm quyền bính, tư lợi cho mình.

Ðối với người tín hữu Kitô, thì cái hôn của Giuda chính là thái độ sống giả hình mà Chúa Giêsu không ngừng kết án trong Phúc Âm. Ðó là điều mà tiên tri Isaia đã cảnh cáo khi ông nói: "Dân này thờ Ta ngoài môi miệng, mà lòng trí chúng thì xa Ta". Nếu cái hôn của Giuda là một cử chỉ thân tình ngoài môi miệng, nhưng lòng trí thì lại chất chứa âm mưu thâm độc, thì thái độ sống giả hình của người tín hữu cũng là một cái hôn như thế.

Khi môi miệng sốt sắng cầu kinh, nhưng cuộc sống lại đầy những hành động gian ác ích kỷ, phải chăng đó không là chiếc hôn của Giuda mà chúng ta dành cho Chúa.


Trích sách Lẽ Sống

HÃY BÌNH TĨNH LẠI

Người Công Giáo Việt Nam: Hãy bình tĩnh lại!
VietCatholic News (15 May 2010 08:37)
Người Công Giáo Việt Nam: Hãy bình tĩnh lại!

Mấy hôm nay, sau sự từ chức và ra đi chữa bệnh của Đức Tổng Ngô Quang Kiệt, nguyên Tổng Giám Mục Giáo Phận Hà Nội, dường như có một “quả bom” vô hình làm nổ tung tâm trí của rất nhiều người Công Giáo Việt Nam, trong nước cũng như hải ngoại. Làm cho nhiều người hoang mang, nghi kỵ và ngay cả đả kích lẫn nhau.

Là một Linh-mục, tôi cảm thấy xót xa cho sự phân rẽ quá mức, mà đáng lẽ chẳng nên chút nào trong Giáo Hội vốn phải luôn Yêu thương và Đoàn Kết. Nếu tôi là một người ngoài cuộc hay là người không thích hoặc chỉ muốn triệt phá Giáo Hội Công Giáo, chắc hẳn tôi sẽ mở tiệc ăn mừng vì thấy “tự dưng chúng nó xâu xé lẫn nhau”!

Kính thưa tất cả các anh chị em Công Giáo Việt nam thân yêu. Chẳng biết anh chị em có cảm thấy đau xót và mang một chút hối hận trong tâm hồn khi anh chị em chúng ta “xâu xé” nhau vì một sự kiện mà đáng lẽ ra chúng ta phải đoàn kết và yêu thương nhau hơn không? Nếu chúng ta có một đức tin mạnh mẽ vào sự Quan Phòng của Thiên Chúa thì chúng ta phải biết cảm tạ Thiên Chúa vì tất cả những sự kiện xảy ra trong đời ta và trong Giáo Hội.

Quí anh chị em nên biết một điều là chẳng có gì xảy ra ngoài sự xếp đặt trong Tình Yêu Quan Phòng của Thiên Chúa. Chẳng có thế lực trần gian nào có thể lèo lái Thiên Chúa theo ý của mình được! Nhất là Giáo Hội được Chúa Giêsu thiết lập thì chẳng có quyền lực trần gian hay ma quỉ nào có thể phá nổi. Anh chị em đừng sợ! Thiên Chúa đang đồng hành với chúng ta. Chúa đã làm cho một Phaolô bách hại trở thành một Tông-đồ hăng say rao giảng Tin Mừng Cứu độ, thì Chúa cũng có thể biến đổi tâm trí của nhiều người bách hại và chống phá Giáo Hội trở thành con cái của Chúa. Chúa không muốn mất một người nào trong chúng ta, dù tin Chúa hay không tin. Thiên Chúa có chương trình cho mỗi người và mỗi dân nước, và chương trình của Thiên Chúa thì tuyệt hảo.

Trong niềm tin đó, dù là một Linh-mục tầm thường trong cõi bao la của đất trời, tôi viết bài này để xin mời mọi người Công Giáo Việt nam hãy bình tĩnh lại và sống trọn vẹn niềm tin của mình vào Thiên Chúa. Chúng ta có những thử thách trong cuộc sống đức tin. Chúng ta có những bách hại trong trong niềm tin. Tuy nhiên, nếu dùng những cách thức của trần gian để giải quyết thì chúng ta đâu có thừa hưởng Kho Tàng Đức Tin của cả trăm ngàn Các Thánh Tử Đạo Việt Nam?!

Do đó, trong tâm tình yêu thương và gần gũi với Giáo Hội Việt Nam, tôi muốn nói lên một vài nhận định về sự “ra đi” của nguyên Đức Tổng Giám Mục Hà Nội Ngô Quang Kiệt. Tôi viết hai chữ “ra đi” trong ngoặc là để tránh một hiểu lầm là Ngài bị thất sủng, bị thuyên chuyển hay bị cho ra rià khỏi chức vụ Tổng Giám Mục Hà Nội. Ngài ra đi với một ý ngay lành và thánh thiện của một vị Tổng Giám Mục anh hùng và can đảm trong việc bảo vệ Giáo Hội, bảo vệ Công Lý và Sự Thật. Tôi nói đến “ý ngay lành và thánh thiện” trong mạch văn một bài phỏng vấn của Ngài cho WHD và lá thơ từ biệt mới nhất của Ngài.

Không biết anh chị em đã từng đọc bài “Phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt” chưa? Tôi xin viết lại câu hỏi 6 mà Ngài khẳng định trong bài phỏng vấn:

6. Gắn liền với việc bổ nhiệm vị tổng giám mục phó Hà Nội, có dư luận cho rằng Đức Tổng phải rời khỏi Hà Nội do sức ép của Tòa Thánh, của chính quyền Việt Nam, và của cả HĐGMVN. Xin Đức Tổng soi sáng cho chúng con về vấn đề này.

Trả lời: Bản thân tôi không bị áp lực nào hết. Tòa Thánh và HĐGM luôn ở bên cạnh tôi và bênh vực khi tôi bị công kích. Các ngài không bao giờ bảo tôi, dù là gợi ý xa xôi nhẹ nhàng, phải từ chức. Tôi chỉ bị áp lực của lương tâm trách nhiệm. Từ hai năm nay sức khỏe tôi sa sút không thể làm việc trí óc có hiệu quả. Tôi đã trình bày với Tòa Thánh để xin nghỉ vì lợi ích của Giáo hội, riêng của Tổng giáo phận Hà nội. Khi đi Ad limina các Đức cha biết điều đó đã phản đối. Thậm chí các Đức cha trong giáo tỉnh Hà nội còn viết đơn khiếu nại với Tòa Thánh. Nhưng khi hiểu hoàn toàn không có áp lực từ phía Nhà Nước hay Tòa Thánh, các ngài đã tôn trọng ý kiến của cá nhân tôi. –

Qua câu hỏi và câu trả lời trên, chúng ta thấy rõ ràng là nguyên Đức Tổng Hà Nội không bị một áp lực nào cả, dù là “từ phía Nhà Nước hay Tòa Thánh”. Trong vài ngày qua, một ít bài viết đạo cũng như đời đại ý nói rằng Tòa Thánh bị áp lực bởi nhà cầm quyền Việt Nam để “đẩy” Đức Tổng Kiệt ra khỏi Hà Nội và bổ nhiệm Đức Tổng Giám Mục Phó Phêrô Nguyễn Văn Nhơn lên thay thế, và rằng “được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, Đức Giáo Hoàng đã tiến hành việc bổ nhiệm này” vv và vv... Chúng ta phải khôn ngoan và bình tĩnh trong việc nhận xét và phê bình. Đừng coi thường Tòa Thánh và đề cao nhà cầm quyền Việt Nam. Tòa Thánh Vatican không phải là con nít để ai muốn sai khiến làm sao cũng được. Tòa Thánh là một người Mẹ nhân từ, luôn yêu thương con cái mình, dù là một người con hay là cả một Giáo Hội địa phương. Đứa con bị đau và kêu xin Mẹ, Mẹ phải tìm phương cách tốt nhất để yêu thương và bảo vệ con mình.

Có ý kiến lại cho rằng, việc “đẩy” Đức Tổng Kiệt ra khỏi Hà Nội có sự bàn thảo của Hội đồng Giám mục Việt Nam, thậm chí có lập luận nêu lên là có bàn tay thông đồng giữa Hội đồng Giám mục Việt nam với nhà cầm quyền Việt Nam. Tôi muốn làm sáng tỏ thêm vấn đề được đặt ra này qua câu hỏi số 3 và câu trả lời của Đức Tổng Kiệt:

3. Hội nghị của HĐGM kết thúc và ngay sau đó Đức cha Phó Tổng Thư ký đã công bố Biên bản của Hội nghị. Văn kiện này giúp toàn thể Dân Chúa tại VN và mọi người quan tâm biết được nội dung nghị sự của các Đức giám mục.

Tuy nhiên lại có thông tin cho rằng HĐGMVN cũng đã bàn trong Hội nghị về vấn đề nhân sự của Tòa Tổng giám mục Hà Nội. Đức Tổng nghĩ gì về thông tin này?

Trả lời: Những thông tin đó tỏ ra không am hiểu cơ chế hoạt động trong Giáo hội, hoặc cố tình lái dư luận vào chiều hướng khác. Phải nói ngay rằng bổ nhiệm giám mục là quyền của Đức Thánh Cha chứ không thuộc thẩm quyền của Hội đồng Giám mục. Hội đồng Giám mục chắc chắn không dám lạm bàn vấn đề này. Đàng khác tiến trình bổ nhiệm giám mục là bí mật của Tòa Thánh (secret pontifical) mà mọi người phải nghiêm cẩn tuân giữ. Có thể có những thăm dò. Nhưng thăm dò chỉ là tham khảo và không hề có tính quyết định. Cho nên chắc chắn các Đức Cha không bàn về những vấn đề không thuộc thẩm quyền.

Qua mấy câu hỏi và trả lời rõ ràng trên, tôi mong quý anh chị em Công Giáo Việt Nam chúng ta nên có một cái nhìn khách quan và bình tĩnh.

Trong trường hợp của Đức Tổng Kiệt, Ngài bị chứng mất ngủ như mọi người chúng ta đều biết. Chứng mất ngủ của Ngài đã gây biết bao khó khăn cho thể lý và tinh thần của Ngài. Từ đó ảnh hưởng đến công việc điều hành của cả một Tổng giáo phận, một trách nhiệm mà lương tâm bảo Ngài dừng lại. Thiên Chúa ban cho mỗi người một Lương Tâm, và tiếng lương tâm là tiếng trong lành nhất trong con người. Nếu Lương Tâm bảo mình làm một điều, mà mình làm ngược lại thì phải chăng mình đang chiều theo cái riêng tư của dục vọng?! Ngẫm nghĩ lại, mỗi người chúng ta tự hỏi có bao giờ chúng ta làm trái Lương Tâm chưa? Và nếu đã từng làm trái, chúng ta nghĩ như thế nào? Do đó, chúng ta phải can đảm và khách quan để chấp nhận tiếng Lương Tâm của Đức Tổng Ngô Quang Kiệt bảo ngài phải dừng lại “vì lợi ích của Giáo Hội” trong sự cao thượng, yêu thương và đoàn kết. Hãy tin tiếng nói Lương Tâm của ngài là Sự Thật và hãy chấp nhận Sự Thật trong an vui và phó thác vào sự Quan Phòng tình yêu của Thiên Chúa. Hơn nữa, hãy biết thương Đức Tổng Ngô Quang Kiệt.

Chúng ta tự đặt một giả thuyết là nếu bị áp lực của chúng ta để rồi Đức Tổng Ngô Quang Kiệt ở lại phục vụ, rồi một ngày nào đó tự dưng bị kiệt sức và ngồi một chỗ hay nằm một chỗ, chẳng còn làm được việc gì... Lúc đó, ai là người chịu trách nhiệm? Hay chúng ta trở thành những người bàng quang và đưa ra phán đoán là tại Đức Tổng làm việc quá độ và không biết gìn giữ mình?! Chúng ta hãy nhìn vào gương Chúa Giêsu. Sau khi Sống Lại, Chúa cùng ăn và cùng ở với các Môn-đệ trong 40 ngày. Các Môn-đệ yêu và nhớ thầy mình lắm chớ. Các ngài đâu có muốn Chúa lìa xa các ngài. Nhưng Chúa phải dứt đoạn về Trời. Chúa phán: “Thầy nói thật với anh em: Thầy ra đi thì có lợi cho anh em.” (Ga 16: 7).

Cách đây vài hôm, Đức Tổng Ngô Quang Kiệt đã gởi Cộng đồng Dân Chúa Tổng giáo phận Hà Nội một lá thơ từ biệt, trong đó Ngài viết:

“Tôi thật có lỗi khiến anh chị em thất vọng khi nộp đơn xin từ nhiệm. Nhưng anh chị em hãy tin rằng tôi đã làm tất cả chỉ vì lợi ích của Giáo Hội, cụ thể là của Tổng Giáo Phận Hà Nội chúng ta. Thực ra khi tôi đề cập đến vấn đề này, các Bộ liên quan đều phản đối. Nhưng khi tôi trực tiếp đệ đơn lên Đức Thánh Cha, ngài đã thông cảm và với lòng hiền phụ, ngài đã chấp nhận. Cùng với đơn từ nhiệm, tôi cũng xin Tòa Thánh tìm người kế vị và Tòa Thánh đã tuyển chọn Đức cha Chủ tịch Hội Đồng Giám mục Việt Nam Phêrô Nguyễn Văn Nhơn. Vì vâng lời Đức cha Phêrô đã can đảm lãnh nhận nhiệm vụ nặng nề trong thời điểm đầy tế nhị hiện nay. Tất cả đã được thực hiện trong tinh thần phục vụ và yêu thương.”

Qua lá thơ này, Đức Tổng Kiệt đã bày tỏ và gói trọn tâm tình của mình trong Sự Thật. Ngài là người tranh đấu cho Sự Thật thì ngài cũng nói lên tấm lòng sâu xa của mình bằng Sự Thật. Chúng ta hãy tin vào Sự Thật mà ngài đã nói. Đừng biến những điều ngài nói thật thành những tranh luận theo ý riêng của mình để rồi “tự mình làm khổ lấy mình”! Gây nên biết bao phản cảm trong tư tưởng và lời nói. Chúng ta phải sống tinh thần Yêu Thương và Hợp Nhất để rồi thế gian thấy những người Công Giáo chúng ta sống mà nói như Chúa đã phán: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Ga 13: 35)

Trong sự Quan Phòng của Thiên Chúa quyền năng và tình yêu, qua sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, chúng ta biết rằng Đức tân Tổng Giám Mục Hà Nội Phêrô Nguyễn Văn Nhơn sẽ tiếp nối công việc của Công Lý và Sự Thật, của Yêu Thương và Phục Vụ mà Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt đã đi và để lại vết son toả sáng cho chúng ta bước theo. Biết đâu Chúa sẽ dùng Đức Tổng Kiệt vào một công việc lợi ích cho Giáo Hội sau này?! Ý Chúa là nhiệm mầu, làm sao loài người có thể thấu hiểu?

Phần chúng ta, những người con của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, chúng ta cố gắng hòa nhịp và đồng hành với Giáo Hội qua sự hướng dẫn của Đức Thánh Cha và Hội Đồng Giám mục, cách riêng các Giám mục trong mỗi giáo phận, và sống đúng vai trò của người theo Chúa Giêsu Kitô là: Bác Ái, Hòa Thuận và Yêu người trên đường sống và tìm Công Lý cũng như Sự Thật cho mọi người và đất nước.
Lm. Peter Hoàng Omi
(nguồn : vietcatholic.net)

Thứ Bảy, 15 tháng 5, 2010

PHỎNG VẤN ĐỨC CHA PCT.HĐGMVN

Phó chủ tịch HĐGMVN trả lời RFA về sự kiện TGM Ngô Quang Kiệt từ chức
VietCatholic News (14 May 2010 19:12)
Phó chủ tịch HĐGMVN trả lời RFA về sự kiện TGM Ngô Quang Kiệt từ chức

Chung quanh việc bổ nhiệm Phó tổng Giám Mục Giáo phận Hà Nội và sự từ chức của Tổng giám mục Ngô Quang Kiệt dư luận hiện đang chia thành hai khối.

Hôm 7-5-2010, nhân lễ chào đón Tổng giám mục phó Hà Nội, giáo dân đã mang theo nhiều hình ảnh, biểu ngữ ủng hộ Tổng giám mục Ngô Quang Kiệt.

Một bên cho rằng sự bổ nhiệm của Vatican căn cứ trên lá thư từ chức vì sức khỏe của Giám mục Ngô Quang Kiệt, một bên thì đoan chắc Vatican đã nhuợng bộ để đưa vị giám mục cương cường này ra khỏi giáo phận Hà Nội như mong muốn của UBND thành phố Hà Nội đã từng đưa ra trước đây.

Để rộng đường dư luận, Mặc Lâm có cuộc phỏng vấn đặc biệt với Đức Giám Mục Giuse Nguyễn Chí Linh, đương kim Phó chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam.

Dư luận trái chiều Mặc Lâm: Thưa Đức Giám mục, trước tiên xin được cám ơn ngài đã cho phép chúng tôi thực hiện cuộc phỏng vấn đặc biệt này nhằm tìm kiếm câu trả lời cho một vấn đề hiện đang gây tranh cãi trong và ngoài nước. Trước tiên, với tư cách gần gũi rất nhiều với Tổng giám mục Ngô Quang Kiệt, xin ngài cho biết sự thực sức khỏe của giám mục Ngô Quang Kiệt có trầm trọng đến mức độ phải từ chức hay không, trong khi ngài biết rõ sự từ chức của ngài sẽ là tiền đề cho bao nghi nan?

GM Nguyễn Chí Linh: Chính trong Hội đồng Giám mục chúng tôi cũng thấy đó là cái gì khó hiểu cho nên cũng muốn được sự xác minh của ngài. Ngài luôn lập đi lập lại là người ta cứ hiểu lầm là mình bị sức ép để mà từ chức nhưng thật ra sức khỏe của ngài suy yếu cách nay đã lâu cho nên ngài đã làm đơn từ chức trước khi xảy ra vụ Tòa khâm sứ và vụ Thái Hà.

“Chúng tôi cũng rất lấy làm xót xa vì công luận người ta suy diễn theo cái nhìn của người ta cho nên nó tạo ra những ngờ vực rất là lớn và có nguy cơ biến người nọ người kia thành nạn nhân. GM Nguyễn Chí Linh

Dư luận cứ cho đó là sức ép của phía nọ phía kia. Cách đây không lâu tôi đã trực tiếp hỏi Đức tổng Giuse nhiều lần, mãi đến mấy ngày vừa qua, chúng tôi rất ngạc nhiên không hiểu tại sao ngài lại từ chức vào lúc này. Ngài trả lời chỉ đơn giản là ngài không làm việc được. Mỗi lần nghĩ tới công việc thì đã bủn rủn tay chân. Cơ thể thì cứ ngày một suy nhược đi. Nhìn diện mạo bên ngoài của ngài thì có thể thấy được điều đó.

Hiện nay sắc diện của ngài không được hồng hào như trước đây. Ngài rất gầy gò, mặc dù trí nhớ của ngài thì vẫn rất minh mẫn, điều này thì không thể phủ nhận được. Sự tiều tụy của ngài có thể thấy được một cách rõ ràng.

Chúng tôi cũng rất lấy làm xót xa vì công luận người ta suy diễn theo cái nhìn của người ta cho nên nó tạo ra những ngờ vực rất là lớn và có nguy cơ biến người nọ người kia thành nạn nhân.

Giáo dân nói chung thì họ không nắm vấn đề lắm. Họ bị chi phối bởi truyền thông rất nhiều. Truyền thông có khi chỉ một chiều, ngay cả giới linh mục người ta cũng hoang mang, không biết thật hư như thế nào. Nó tạo ra sự phân hóa hay hình thức hận thù nào đó đối với những nhân vật đang còn phục vụ giáo hội Việt Nam.

- Giáo hoàng Benedict 16 chấp nhận đơn từ chức của Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt. Phó Tổng Giám mục Nguyễn Văn Nhơn sẽ trở thành người kế nhiệm theo giáo luật.

- Giáo hoàng Benedict 16 chấp nhận đơn từ chức của Giám mục Cao Đình Thuyên, Giám mục Giáo phận Vinh. Linh mục Nguyễn Thái Hợp, Dòng Anh em thuyết giáo kế nhiệm

Bản thân là Giám mục, tôi nhận được rất nhiều bài vở và chúng tôi không biết nguồn xuất phát từ đâu. Chỉ biết có những bài chửi bới trong những email. Lời lẽ họ dùng là thằng nọ thằng kia. Người thường với nhau khi giận dỗi cũng không có lời lẽ như thế.

Có nhiều cái chúng tôi không thể hiểu được, ở sau lưng ai là người đang có ý đồ chia rẽ giáo hội Việt Nam. Bây giờ phần còn lại là làm thế nào để con cái trong giáo hội đừng để người ta làm cho đàn chiên tan tác như thế.

Không biết bài thuốc để chữa trị là gì và chúng tôi cảm thấy đau lòng trước những gì đang xảy ra. Có những người vì lòng mộ mến đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt, rồi lên án người này người nọ thì tôi thấy nó không phù hợp với tinh thần Kitô giáo cho lắm.

Tình thế khó xử Mặc Lâm: Thưa trước sự việc ngày một nghiêm trọng như thế nhưng HĐGMVN vẫn giữ im lặng và không có một giải thích nào nhằm làm rõ vấn đề hơn, theo Đức giám mục thì một bức thư chung của HĐGMVN có làm cho tình hình đổi khác đi hay không?

GM Nguyễn Chí Linh: Các Đức cha cũng đã bàn đi bàn lại nhiều lần. Nhiều vị cũng đồng quan điểm với anh trong việc ra một thư chung. Tuy nhiên trong bối cảnh này nếu mình ra một thư chung thì phải đặt vấn đề có lợi hay hại. Lượng định của một số giám mục Việt Nam thì bây giờ nếu ra thư chung thì họ lại ném đá vào bức thư này bởi vì mình không biết phải nói thế nào để thuyết phục những người làm công tác truyền thông mà họ có ý gây phân hóa trong giáo hội.

Đa số giáo dân vẫn còn yêu mến giáo hội lắm, phải khẳng định điều đó. Họ cũng “chín mồm chín miệng” vì dư luận nọ kia nhưng họ vẫn trung thành. Điều đáng sợ nhất là HĐGMVN không biết mình sẽ là cái gì đối với những người đứng ở hậu trường tìm cách phá hoại giáo hội. Tôi vẫn tin rằng có những người họ có cả một kế hoạch, ngay cả có kịch bản làm cho giáo hội Việt Nam tan nát. Tuy nhiên, mình không có cơ sở nào để khẳng định. Chỉ biết rằng những người yêu mến giáo hội họ không gieo rắc thù hận hay chia rẽ.

Những người gieo rắc thù hận hay chia rẽ thì hoặc là họ không yêu giáo hội hoặc là họ cố tình làm như thế để tạo nguy cơ chia rẽ.

Thư chung thì được đã bàn tới nhiều lắm nhưng không biết viết như thế nào, và không biết tung ra có lợi hay là không, hay là nó sẽ là cái bia để cho người bắn nhiều hơn.

Mặc Lâm: Thưa Đức Giám mục, nếu nhìn một cách tích cực hơn thì dù sao một sự lên tiếng chính thức của HĐGMVN cũng giúp cho những người đang chao đảo vũng tin hơn vào giáo hội Việt Nam thưa Đức cha?

GM Nguyễn Chí Linh: Nhìn từ phía anh nhiều khi nó đơn giản tại vì anh không ở trong cuộc, không nghe những lời chửi bới người ta gửi đến trong tin nhắn, email của chúng tôi hàng ngày. Những nạn nhân bị nhắm tới là tất cả các giám mục. Họ dùng những lời lẽ thô tục như cả cuộc chiến. Họ tấn công thật sự cho nên sự dè dặt của HĐGMVN là hiểu được.

“Điều đáng sợ nhất là HĐGMVN không biết mình sẽ là cái gì đối với những người đứng ở hậu trường tìm cách phá hoại giáo hội. GM Nguyễn Chí Linh

Hai nữa về phương diện cơ chế thì hiện nay người có trách nhiệm quyết định lên tiếng hay không lên tiếng, viết thư chung hay không viết thư chung là Đức cha chủ tịch. Hiện nay ngài đã về Hà Nội. Nếu một giám mục khác mà viết thì không đủ tư cách, mà họp lại thì cũng chính đức cha chủ tịch triệu tập.

Ý tưởng anh đưa ra chúng tôi cũng từng chia sẻ nhưng bây giờ ngài đang lâm vào một tình thế phức tạp nên ngài cũng chưa dám quyết định một điều gì mang tính toàn quốc.

Mặc Lâm: Như sự trình bày của ngài thì HĐGMVN đang lâm vào tình trạng rất khó xử, như vậy giải pháp trông cậy vào một tuyên bố chính thức của Vatican trước những luồng dư luận bất lợi cho giáo hội có được HĐGMVN nghĩ đến hay không?

GM Nguyễn Chí Linh: Theo truyền thống thì Vatican rất bản lĩnh trong mặt trận ngoại giao. Bởi vì không phải Việt Nam là nước đầu tiên gặp rắc rối, nhiều nước đã từng gặp. Nguyên tắc làm việc của Bộ ngoại giao Tòa thánh và của Bộ Truyền giáo là không phát ngôn, không phát biểu gì về những hoàn cảnh cụ thể mà chỉ đưa ra những định hướng mà thôi.

Nếu thanh minh thì Tòa thánh phải thường xuyên ở trong tình trạng phải đối đáp. Phải bút chiến với những nơi mà giáo hội đang có vấn đề thì điều đó nó không khôn ngoan vì người ta hỏi đâu nói đấy. Tòa thánh sẽ trở thành thụ động không thể hiện tính tự do của mình khi quyết định.

Nguyên tắc làm việc của Bộ ngoại giao Tòa thánh và của Bộ Truyền giáo là không phát ngôn, không phát biểu gì về những hoàn cảnh cụ thể mà chỉ đưa ra những định hướng mà thôi. GM Nguyễn Chí Linh

Một quyết định mà phải giải thích cho toàn thế giới thì điều đó người ta không bao giờ thỏa mãn, ví dụ như trường hợp của Đức tổng Kiệt. Nếu đi vào cụ thể, khi tòa thánh trả lời phải khẳng định mình ủng hộ đức tổng Kiệt hay không ủng hộ. Ủng hộ đức cha Nhơn hay không ủng hộ? Điều này rất khó cho tòa thánh. Tưởng tượng rằng mình đang trong vế của tòa thánh thì không đơn giản tí nào.

Nếu làm ở Việt Nam như thế thì cũng phải làm ở Trung Quốc ở Nam Mỹ. Không lẽ quanh năm suốt tháng tòa thánh phải luôn luôn trả lời việc bổ nhiệm? Vậy thì điều này không thực tế lắm.

Mặc Lâm: Xin được hỏi Đức giám mục một câu cuối, nếu có cơ hội chia sẻ với những tu sĩ, giáo dân hay kể cả người ngoài Giáo hội nhưng có quan tâm về sự kiện này thì ngài sẽ nói gì?

GM Nguyễn Chí Linh: Đối với tôi thì giá trị hàng đầu vẫn là tính hiệp thông Giáo hội. Để những âm mưu phá hoại giáo hội bằng cách phân hóa giữa người nọ với người kia trong hàng ngũ lãnh đạo của giáo hội Việt Nam không thành công. Trong hoàn cảnh này nếu có thể được thì tôi cũng kêu gọi mọi thành phần xã hội, đừng phân biệt người này là gốc công giáo người kia không công giáo, để từ đó có những đối xử không được công bằng.

Có nghĩa là mọi thành phần giáo hội cũng như xã hội phải thật sự nhìn nhận tình liên đới. Sự đoàn kết là một giá trị tích cực nó mang tính vừa dân tộc vừa Ki tô giáo. Đó là cái chìa khóa mình có thể dùng để giải quyết khủng hoảng hiện nay trong giáo hội Việt Nam.

Mặc Lâm: Xin cảm ơn Đức Giám Mục Giuse Nguyễn Chí Linh đã dành thời gian trả lời cho cuộc phỏng vấn này.
Mặc Lâm /RFA
(nguồn : vietcatholic.net)

MƯU SÁT ĐỨC GIÁO HOÀNG

Phá vỡ âm mưu ám sát Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI
VietCatholic News (14 May 2010 12:58)
Phá vỡ âm mưu ám sát Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI

Thủ đô Rôma Ý Đại Lợi, lúc 12:03PM trưa nay ngày 14 tháng Năm 2010 theo bản tin liên hợp của Thông Tấn Xã (CNA/EWTN News) 2 sinh viên quốc tịch nước Ma-rốc hiện đang theo học tại Trường Đại Học Perugia tại miền Trung nước Ý Đại Lợi đã bị trục xuất khỏi nước Ý vào cuối tháng Tư 2010 sau khi các giới chức an ninh có thẩm quyền tại Ý khám phá ra họ đã và đang âm mưu ám sát Đức Thánh Cha Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI. Một trong 2 sinh viên bị buộc tội này đã tuyên bố rằng; hắn đã muốn " được kiếm một chỗ trên Thiên Đàng !!!" (sic)

Theo tuần báo Paronama Toàn Cảnh Nước Ý, các giới chức thẩm quyền Nước Ý đã thâm nhập và ghi âm đầy đủ các bằng cớ để dẫn đến việc bắt tại chỗ hai nghi phạm này và tiến hành tống xuất- trả họ về lại Marốc.

Án Lệnh Tống Xuất có kèm theo các cuộn băng thu âm các cuộc nói chuyện của một trong 2 nghi phạm tên là Mohammed Hlal, nói rằng y đã muốn " cái chết cho vị Nguyên thủ Quốc Gia -Thành Phố Vatican " và y đã " chuẩn bị sẵn sàng ám sát giết chết Đức Giáo Hoàng để được hưởng một chỗ trên Thiên Đàng."

Mohammed Hlal, nam giới 27 tuổi đang nói chuyện bằng điện thoại với Ahmed Errahmouni- nam giới -22 tuổi và đã phát biểu như trên cùng với chuyến du lịch dự định về thăm Marốc đã lập tức gây chú ý cho giới chức cảnh sát địa phương Ý.

Hai nghi phạm này lập tức bị coi như là " Mối đe dọa trực tiếp cho nền An ninh Quốc Gia Ý" theo như văn kiện ký bởi Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ Ý và Án Lệnh Tống Xuất ra khỏi Nước Ý vào ngày 29 tháng Tư 2010 theo như tường trình của Tuần báo Paronama nước Ý.

Theo như các biên bản điều tra tiến hành từ đầu tháng Mười năm 2009 bởi Lực Lượng Cảnh Sát Bài Trừ Băng Đảng Tội Ác Mafia của Bộ Nội Vụ Ý, 2 nghi phạm này được biết rõ là có quan điểm Hồi Giáo quá khích và tỏ ý rõ ràng rằng họ rất muốn nhận các chất nổ. Báo cáo an ninh cho biết rằng tuy vậy không tìm thấy có vật liệu hay trang thiết bị nào dùng để chế tạo ngòi nổ hay chất nổ chứa tại phòng trọ của các nghi phạm nói trên.

Nghi phạm Mohammed theo học về ngành Truyền thông Quốc Tế còn Errahmouni là sinh viên theo học Toán-Vật Lý tại Trường Đại Học Perugia, Ý.


Dominic David Trần
(nguồn : vietcatholic.net)

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT THĂNG THIÊN (Lc 24, 46-53)

LẼ SỐNG 15.5

15 Tháng Năm
Ta Không Kết Án Con

Tại nhà thờ chánh tòa Wurzburg trong miền Baviere, Tây Ðức, có một tượng thánh giá rất nổi tiếng được tạm trổ vào khoảng thế kỷ 14. Trên những tượng thánh giá, thông thường đôi tay Chúa Giêsu giang ra và bị đóng vào gỗ giá. Riêng đôi tay của Chúa Giêsu trên tượng thánh giá tại nhà thờ chánh tòa Wurzburg thì khác hẳn: thay vào bị dang ra và bị đóng vào gỗ giá, hai cánh tay của Chúa lại khoanh trước trái tim như thể đang ôm vào lòng một người nào đó.

Người dân địa phương truyền tụng rằng trong cuộc chiến tranh tôn giáo giữa Tin Lành và Công Giáo vào giữa thế kỷ 17, một người lính chống Công Giáo đã vào nhà thờ này. Nhìn thấy trên đầu Thiên Chúa có một triều thiên bằng vàng, anh sinh lòng tham, bắc thang leo lên để đánh cắp. Khi anh vừa đưa tay tháo gỡ triều thiên thì đôi cánh tay của Chúa Giêsu bỗng được tháo gỡ. Chúa Giêsu dang tay ôm trọn lấy anh vào lòng, với tất cả trìu mến. Người lính chết lịm trong vòng tay âu yếm của Chúa Giêsu.

Người ta tìm thấy xác của anh dưới chân thánh giá!

Kể từ ngày đó, hai cánh tay của Chúa Giêsu không còn dang ra và bị đóng vào lỗ đinh nữa, nhưng được khoanh trước trái tim trong tư thế đang ôm chầm lấy một người nào đó.

Du khách nhìn lên thập giá đều có cảm tưởng như ánh mắt của Chúa Giêsu nhìn mình và nghe có tiếng thì thầm: "Ta không hề kết án con".

"Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài", đó là chân lý cơ bản nhất trong Kitô giáo. Tất cả cuộc đời của Chúa Giêsu, cái chết của Ngài trên thập giá: đó là ngôn ngữ qua đó muốn nói với chúng ta rằng Ngài yêu thương chúng ta, yêu thương đến nỗi sẵn sàng để cho Người Con Một của Ngài chết thay cho chúng ta.

Thiên Chúa yêu thương con người: điều đó không có nghĩa là Ngài yêu thương con người một cách trìu tượng, yêu thương con người như một đám đông hay như một con số. Thiên Chúa yêu thương con người bằng một tình yêu cá biệt, nghĩa là mỗi người chúng ta đối với Ngài như thể là người duy nhất hiện hữu trên trần gian này. Mỗi người là một lịch sử, mỗi người chiếm trọn tình yêu của Chúa.

Thiên Chúa yêu thương tôi, nghĩa là Ngài chỉ muốn điều thiện cho tôi. Ðiều thiện ấy có thể vượt khỏi suy tính, đo lường của tôi. Do đó, cho dẫu có gặp trăm nghìn đớn đau, vất vả, chúng ta cũng hãy tin rằng Thiên Chúa đang yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương tôi đến độ làm mọi cách để cho mọi sự đều quy về điều thiện hảo cho tôi. Một cơn bệnh, một sự thất bại, một cái chết, một sự mất mát và ngay cả tội lỗi: tất cả đều là những cơ may để Ngài ban cho tôi một ơn phúc cao cả hơn.


Trích sách Lẽ Sống