Thứ Bảy, 18 tháng 6, 2022
Thứ Sáu, 17 tháng 6, 2022
TỪ NGỮ CÔNG GIÁO TRONG MỘT SỐ TỤC NGỮ, CA DAO TIẾNG VIỆT
Tiến sĩ Nguyễn Huy Thông viết: “Cả một kho tàng ca dao, tục ngữ Công giáo cũng đã được lưu hành để phản ánh về phong tục, tập quán của cộng đoàn này.” [8]. Đây là một nhận định có phần “rộng rãi” vì các đơn vị có thể được gọi là ca dao, tục ngữ Công giáo tại nước ta có số lượng tương đối hạn chế. Tuy nhiên, phát biểu của nhà nghiên cứu uy tín về Công giáo tại Việt Nam này đã cung cấp một sự nhìn nhận chính thức mang tính học thuật cho sự hiện diện những “ca dao, tục ngữ Công giáo” trong kho tàng văn học dân gian Việt. Bài viết của chúng tôi lựa chọn những ca dao, tục ngữ chứa những từ ngữ được dễ dàng nhận biết có nguồn gốc Công giáo để nghiên cứu.
Bên cạnh những câu ca dao, tục ngữ nói về lao động sản xuất rất phổ thông như:
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà....
Thì cũng có những câu mang đặc trưng Công giáo mà người đọc dễ dàng nhận ra. Chẳng hạn nói về thời hạn mùa vụ trồng bí của bà con:
Lễ Các thánh thì đánh bí ra.
Theo kinh nghiệm của người nông dân vùng Công giáo, cứ lễ Rôsa thì tra hạt ươm giống, lễ Các Thánh thì đánh cây giống xuống ruộng thì hợp với thời tiết và mùa vụ của giống cây trồng này.
Hay nói về thời gian mùa vụ cấy lúa vụ chiêm đông xuân, thì có:
Lễ Sinh Nhật giật mạ đi cấy…
Trong các câu ca dao – tục ngữ về lao động sản xuất này, chúng ta nhận thấy có các từ ngữ vốn là các biệt ngữ Công giáo như: lễ Rôsa (vào ngày 07 tháng 10 dương lịch), lễ Các Thánh (vào ngày 01 tháng 11 dương lịch), lễ Sinh Nhật (còn gọi là lễ Giáng Sinh hay lễ Noel tổ chức vào ngày 25 tháng 12 dương lịch). Đây là tên gọi các ngày lễ Công giáo đã vượt qua ranh giới của ngôn ngữ phụng vụ (ngôn ngữ tôn giáo), đi vào trong ngôn ngữ sinh hoạt đời thường ở một mức độ “phi biệt ngữ hóa” khá cao là ca dao – tục ngữ.
Cũng như lãnh vực về thời tiết và lao động sản xuất, mảng về tình yêu hôn nhân gia đình là một mảng khá phong phú về số lượng sáng tác trong kho tàng ca dao – tục ngữ Việt Nam.
Khảo sát mảng ca dao tục ngữ này, chúng tôi xác định được một số đơn vị từ ngữ Công giáo, ví dụ:
Đôi ta trinh tiết đợi chờ lấy nhau
Nội dung câu ca dao: Nhắc nhở các đôi nam nữ giữ lòng trinh tiết, là luật bắt buộc đối với những ai chưa bước vào đời sống hôn nhân.
Xin cho bên Đạo, bên Đời lấy nhau.
Nội dung câu ca dao: lời cầu xin hàm chứa tinh thần phản kháng trước truyền thống của Giáo hội Công giáo về việc hạn chế kết hôn giữa người có đạo và người không có đạo.
Em lấy được vợ em thôi nhà thờ.
Nội dung câu ca dao: Câu ca dao vui có ý nhắc nhở các chàng trai ngoài Công giáo chỉ theo đạo với mục đích cưới vợ.
Giải thích các từ ngữ Công giáo:
Amen (阿门, Amen, Amen, Amen)[1]: Từ gốc Hipri với nghĩa đúng thật như vậy, ước gì được như vậy. Vì thế, Amen có thể được dùng để diễn tả sự trung tín của Thiên Chúa, sự chân thật, vững vàng trong các lời hứa của Ngài và lòng trông cậy của con người đối với Ngài (3: số 1062).
Trong Cựu Ước, đặc biệt trong sách tiên tri Isaia có kiểu nói “Thiên Chúa của Amen”, nghĩa là Thiên Chúa Chân Thật (x. Is 65,16). Amen còn biểu lộ sự đồng tình với một lời nói (x. Gr 28,6), chấp nhận một sứ mệnh (x. Gr 11,5), thừa nhận một cam kết (x. Ds 5,22) và kết thúc một lời nguyện hay một lời tôn vinh Thiên Chúa (x. Tv 41,14).
Trong Tân Ước, Amen được Chúa Giêsu dùng như là công thức mạc khải, nhấn mạnh những gì Người nói là chính Lời của Thiên Chúa (x. Mt 6,2). Amen được sách Khải Huyền dùng như tước hiệu của Chúa Giêsu: “Người là Amen của Thiên Chúa vì Người thực hiện mọi lời hứa của Thiên Chúa” (Kh 3,14). Trong Phụng vụ, Amen được cộng đoàn sử dụng như công thức để hiệp thông với chủ tế, tin nhận và tôn vinh Thiên Chúa (3: số 1345).
Đạo (宗 敎, Religio, Religion, Religion): Tôn giáo. Thường dùng trống có nghĩa là đạo Thiên Chúa (Công giáo): Theo đạo (theo Công giáo), Người có đạo (người Công giáo), Nhà thờ đạo (nhà thờ Công giáo), Bỏ đạo (bỏ Công giáo). [6:388].
Đời (Monde laique): Bên ngoại hay bên ngoài (đối với bên đạo, tức Công giáo): Cô ấy đã trở về đời. [6:447]
Đức Chúa Trời (天 主, Deus, God, Dieu): Từ do linh mục Alexandre de Rhodes (còn gọi là cha Đắc Lộ) đặt trong tiếng Việt để gọi Đấng Tối Cao của người Công giáo, có ý hội nhập văn hóa với danh xưng Ông Trời trong văn hóa thờ Trời của người Việt Nam. Từ ngữ Công giáo tiếng Việt còn một danh xưng đồng nghĩa nữa thường dùng hơn là Thiên Chúa.
Đức Chúa Ba Ngôi (天 主 聖 三, Trinitas, Trinity, Trinité): Khái niệm duy chỉ có nơi Kitô giáo về Đấng Tối Cao. Một Thiên Chúa duy nhất mà có ba ngôi vị là Cha – Con – Thánh Thần, còn gọi là Tam Vị Nhất Thể. Ba Ngôi Vị chỉ là một Thiên Chúa, vì mỗi Ngôi Vị đều có trọn vẹn bản thể duy nhất và không thể phân chia (3: số 48). Niềm tin này khởi đi từ mạc khải của Đức Giêsu rằng Thiên Chúa duy nhất (x. Mc 12,29) và cũng là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (x. Mt 28,19); còn gọi là Thiên Chúa Ba Ngôi hay Chúa Ba Ngôi.
Nhà thờ: (教堂, Ecclesia, Church, Église): còn gọi là thánh đường hay giáo đường, khác với nhà thờ họ, nhà thờ tổ của tín ngưỡng thờ kính Tổ tiên. Nhà thờ Công giáo được xây dựng theo các quy định buộc phải tuân thủ đã ghi trong Giáo Luật (3: số 1215 - 1222), có cấu trúc gồm phần cung thánh và phần dành cho giáo dân. Phần cung thánh gồm có bàn thờ để cử hành Thánh lễ, giảng đài để công bố Lời Chúa, nhà Tạm để cất giữ Mình Thánh Chúa. Nhà thờ vừa là nơi cộng đoàn giáo hữu quy tụ để thờ phượng Thiên Chúa, cử hành các Bí tích, vừa tượng trưng cho sự hiện diện của Hội Thánh toàn cầu trong địa phương đó.
Nội dung tục ngữ: Răn dạy người tín hữu trung thành giữ đức tin và luật đạo.
Nội dung tục ngữ: Muốn giữ được luật đạo thì đời sống vật chất phải khả dĩ ổn định đã. Câu tục ngữ này thường bị coi là mang ý nghĩa tiêu cực.
Hay
Nội dung tục ngữ: Theo đạo chỉ vì lợi ích vật chất chứ không có niềm tin tâm linh, tôn giáo. Ý nghĩa tiêu cực.
mà nay đã biết gọi Trời là Cha,
trần gian chẳng phải là nhà,
đi về vĩnh cửu gặp Cha trên trời.
Nội dung ca dao: Câu ca dao nói lên niềm vui của người tìm thấy chân lí đức tin trong Công giáo khi theo đạo; thấy được Ông Trời vẫn tôn kính theo văn hóa giờ không còn xa lạ nhưng là cha của mình, và thấy được lời hứa quê hương vĩnh cửu ở đời sau.
Tôn sùng rước lễ nhà chầu viếng thăm
Nội dung ca dao: Giáo huấn tinh thần đạo đức tôn sùng Mình Thánh Chúa Giêsu cho các cháu thiếu nhi Công giáo.
Các cô con gái thưa kinh dịu dàng
Nội dung ca dao: Nói lên vẻ đẹp của phụng vụ Công giáo.
Để dễ nhớ các ngày lễ trong năm, dựa vào bài ca dao “Tháng giêng là tháng ăn chơi. Tháng hai trồng đậu, tháng ba trồng cà...”, người Công giáo vùng Bùi Chu – Phát Diệm có bài ca dao 12 tháng lịch phụng vụ như sau (Bài ca dao này sử dụng các tháng âm lịch để tính ngày lễ. Đây là điều hiếm.):
Tháng hai ngắm đứng, tháng Ba ra mùa,
Tháng Tư tập trống rước hoa,
Kết đèn làm trạm chầu giờ tháng Năm.
Tháng Sáu kiệu ảnh Lái tim
Tháng Bảy chung tiền đi lễ Phú Nhai,
Tháng Tám đọc ngắm Văn Côi,
Trở về tháng Chín xem nơi chồng mồ.
Tháng Mười mua giấy sao tua
Trở về Một Chạp sang mùa ăn chay.
Giải thích một số từ ngữ Công giáo:
Ảnh Lái tim: Lái tim là từ cũ của Trái tim. Ảnh/tượng Trái tim là cách gọi vắn gọn của ảnh/tượng Trái tim Chúa Giêsu. Tháng Sáu trong lịch Công giáo là tháng kính Trái tim Chúa Giêsu nên các xứ họ đạo có các cử hành kiệu rước tượng/ảnh Trái tim Chúa để tôn kính.
Cha (天 主父, Deus Pater, God the Father, Dieu-Père): cách gọi tắt của “Chúa Cha” là danh của Ngôi thứ nhất trong Ba Ngôi Thiên Chúa.
Trong dân Israen, Thiên Chúa được gọi là “Cha”, vì là đấng tạo dựng trần gian (x. Đnl 32,6). Ngài cũng được gọi là cha của vua Israen (x. 2Sm 7,14) và của người nghèo (x. Tv 68,6).
“Chúa Giêsu đã mạc khải Thiên Chúa là “Cha” theo một nghĩa chưa từng có: Ngài là Cha (...) trong tương quan với Con duy nhất của Ngài, Đấng từ đời đời là Con trong tương quan với Cha của Người” (3: số 240).
Chầu giờ: Cách gọi quen của Giờ Chầu, tức một phiên (không hẳn là một tiếng) tôn kính Thánh Thể của các tín hữu. Làm trạm chầu giờ là việc làm các trạm trên đường đi kiệu trong ngày lễ Sangti tôn kính Thánh thể.
Chồng mồ: Trong nghi thức nguyện giỗ cầu hồn cho người qua đời, ở một số giáo xứ xưa kia có làm giả áo quan, nhà mồ đặt giữa nhà thờ để người giáo dân có lòng thương cảm, sốt sắng hơn khi cầu nguyện.
Mùa ăn chay: Thường gọi là Mùa Chay, khoảng thời gian phụng vụ kéo dài 40 ngày từ thứ Tư lễ Tro đến trước lễ Phục Sinh. Đây là mùa cầu nguyện, sám hối để các tín hữu dọn mình mừng lễ Chúa sống lại cách hiệu quả hơn.
Ngắm đứng: Nghi thức tôn giáo của riêng Công giáo tại Việt Nam do linh mục Alexandre de Rhodes khởi xướng từ đầu thế kỉ XVII, để giúp người giáo dân có tâm tình hơn khi đọc ôn lại cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu.
Ngắm Văn Côi: Cách đọc kinh Văn Côi (hoa hồng) kính Đức mẹ theo cung ngâm.
Nhà Chầu: Nơi đặt Bánh Thánh (Mình Thánh Chúa Giêsu) để giáo dân tôn kính. Thường thiết kế như một tủ nhỏ.
Phú Nhai: Tên một xứ đạo lớn ở giáo phận Bùi Chu, thuộc huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Ngày 8 tháng 8 dương lịch (nếu tính âm lịch thì thường rơi vào tháng Bảy) là lễ kính thánh Đa Minh, quen gọi là lễ Đầu Dòng, một lễ được các địa phận Dòng tổ chức trọng thể, nhất là ở nhà thờ Phú Nhai, tập trung nhiều giáo sĩ và giáo dân tham dự.
Ra mùa: Nói tắt của “Ra mùa Chay” hay “Ra mùa Thương Khó”, tức lễ Phục sinh mừng Chúa Giêsu sống lại, kết thúc mùa Chay (hay mùa Thương Khó).
Rước hoa: Lễ nghi kiệu rước tôn kính Đức Mẹ Maria tổ chức đặc biệt vào tháng Năm dương lịch (nếu tính âm lịch thì thường rơi vào tháng Tư). Gọi là rước hoa, kiệu hoa hay tháng Hoa vì các cuộc kiệu rước trong tháng này điểm đặc trưng nổi bật là việc trang hoàng nhiều hoa lá, nhưng thực chất vẫn là rước và kiệu Đức Mẹ.
Rước lễ: Nghi thức Công giáo chỉ việc các tín đồ cung kính đón nhận và ăn Bánh Thánh (hiểu là Thân thể Chúa Kitô).
Thầy: Từ xưng gọi dành cho những người đi tu phục vụ Giáo Hội ở nhiều giai đoạn, thứ bậc khác nhau, trước khi làm linh mục. Sau khi làm linh mục thì gọi là cha. Chẳng hạn: Thầy già, thầy dòng, thầy La Tinh, thầy lý đoán, thầy triết, thầy thần, thày giảng, thầy phó tế...
Thiếu nhi Thánh Thể: Tên gọi của một tổ chức mang tính chất rèn luyện đời sống đạo đức, nhất là gắn liền với việc tôn sùng Thánh Thể Chúa Giêsu, cho các thiếu nhi Công giáo.
Thưa kinh: Đọc kinh ở phần đáp. Một số kinh hoặc lễ nghi Công giáo được chia làm hai phần: phần Xướng và phần Đáp, được đọc theo lối: người chủ sự đọc phần Xướng, sau đó cả cộng đoàn thưa phần Đáp; hoặc hai phần này chia ra hai bè nam – nữ.
Cùng hết lòng yêu quý Chúa Trời
Thứ nhì cư xử trên đời
Nội dung ca dao: Nhắc người giáo dân sống kính Chúa, yêu người như lời Chúa Giêsu nói: “Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi và hết trí khôn ngươi! Đó là giới răn lớn, giới răn đệ nhất. Thứ đến cũng giống như điều ấy: Ngươi phải yêu mến đồng loại ngươi như chính mình ngươi. Toàn thể lề luật cùng các tiên tri đều quy về hai giới răn ấy.” (Mt 22,37-40).
Hãy vì danh Chúa dằn mình nhịn nhau
Làm gì đừng để Chúa đau
Nữa mai họp mặt, nói sao với Ngài
Nội dung ca dao: Nhắc nhở các giáo hữu là người đồng đạo, hãy biết nhường nhịn nhau để xây dựng đời sống đoàn kết.
Người dại làm lại lỗi xưa
Như chó liếm lại chỗ vừa mửa ra
Câu ca dao lấy ý từ sách Châm ngôn trong phần Kinh Thánh Cựu Ước: “Như con chó trở lại đống nó vừa mửa, cũng vậy, kẻ ngu xuẩn trở về với sự điên dại của nó.” (Cn 26,11).
Hơn nhà trọc phú đi tìm nước Cha
Nội dung ca dao: Của cải vật chất, nếu không biết chia sẻ sẽ là một rào cản cho đời sống tâm linh.
Lại thêm chậm giận, Chúa Trời mới vui.
Nội dung ca dao: Nhắc nhở đức từ tốn, khiêm nhường, hiền lành.
Cuộc đời hoa cỏ không dài
Hôm nay tươi tắn, ngày mai vô lò
Còn có áo đẹp Chúa lo
Con người lọ phải sầu lo hình hài.
Ăn bánh lao khổ cơ cầu lắm khi
Chúa ban dầu có ở nghì
Ngủ thì yên giấc, ăn gì cũng ngon.
Nội dung ca dao: Gần giống với nội dung các câu ca dao trên, nói về lòng tin cậy phó thác vào ơn Chúa quan phòng.
Làm con hiếu kính song thân trọn tình
Suốt đời được hưởng phước lành
Đất đai, cơ nghiệp, tiền trình không lo.
Nội dung ca dao: Dạy về lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ người trên, đây không chỉ là điều răn buộc nhưng còn là công việc mang lại nhiều ơn phước.
Nhà mà chia rẽ sẽ nghiêng ngửa nhà.
Nội dung ca dao: Câu ca dao lấy ý từ lời của Chúa Giêsu trong sách Phúc âm theo thánh Marcô: “Nước nào chia bè chống lại nhau, thì không thể vững được. và nhà nào chia bè chống lại nhau, thì nhà ấy không thể vững được.” (Mc 3, 24-25).
Giải thích một số từ ngữ Công giáo:
Điều răn: Khoản, luật của Thiên Chúa buộc tín hữu phải thi hành.
Đức tin (信 徳, Fides, Faith, Foi): Đức: ơn; Tin: đón nhận, nghe theo. Đức tin: ơn đón nhận, vâng theo.
Theo giáo lý: Đức tin là nhân đức siêu nhân Đức Chúa Trời ban cho ta để ta tin kính Đức Chúa Trời và tin những điều Hội Thánh dạy.
Nước Cha hay Nước Thiên Chúa (天 主國, Regnum Dei, Kingdom of God, Royaume de Dieu): 1. Tình trạng đời sống của các tín hữu tại trần gian nhưng trong ân sủng của Thiên Chúa: mến Chúa yêu người cách trọn vẹn. 2. Nước thiên đàng ở đời sau.
Chúa Trời: x. Đức Chúa Trời (đã giải thích ở trên).
Hay nói về tâm trạng riêng:
Mẹ cha muốn phước bắt vào nhà tu
Trăm nghìn lạy Chúa Giêsu
Nhà tu đừng hóa nhà tù giam em.
Các câu ca dao trên cũng chứa các từ ngữ Công giáo như: “Cha” (từ gọi linh mục), “nhà tu” (nhà dòng), “Chúa Giêsu”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
2. Nguyễn Thị Thúy Giang (2013), Mối quan hệ giữa từ ngữ nhà Phật và từ ngữ đời sống trong tiếng Việt (trường hợp các từ Tâm, Nhân, Duyên), Luận văn Thạc sĩ, Đại học Hải Phòng.
3. Hội đồng giám mục Việt Nam (2010), Sách giáo lý của Giáo hội Công giáo, Nxb. Tôn giáo.
4. Vũ Văn Khương (2001), “Mấy nhận xét khi đọc cuốn Gốc và nghĩa từ Việt thông dụng”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 4.2001.
5. Vũ Văn Khương (2005), “Thử tìm hiểu nguồn gốc, ý nghĩa của mấy danh từ và tập tục trong mùa Vọng”, Tập san số 1 - K.2004, Đại chủng viện thánh Giuse Hà Nội.
6. Vũ Văn Khương (2006), “Giá trị của phụng vụ trong đời sống tín hữu”, Tập san Hiệp thông Hải Phòng, số 7 – 2006.
7. Vũ Văn Khương (2006), “Mùa Chay, thử tìm hiểu gốc và nghĩa của mấy từ ngữ liên quan”, Tập san số 2 - khóa K.2004, Đại chủng viện thánh Giuse Hà Nội.
8. Vũ Văn Khương - Nguyễn Công Đức (2015), “Ngôn ngữ và tôn giáo – các định hướng nghiên cứu”, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, số 5, Hà Nội, tr.84 – 93
9. Vũ Văn Khương (2017), Đặc điểm vay mượn của lớp từ ngữ Công giáo tại Việt Nam (qua khảo sát các bản kinh nguyện của các Giáo phận Dòng tại Việt Nam)”, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 9. Hà Nội, tr.36 – 41
10. Vũ Văn Khương (2018), Từ ngữ Công giáo trong một số tục ngữ, ca dao tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 7, Hà Nội, tr.41 – 46
11. Vũ Văn Khương (2018), Sự chuyển hóa của lớp từ ngữ Công giáo vào tiếng Việt toàn dân, Tạp chí Ngôn ngữ, số 10, Hà Nội, tr.52 – 60
12. Vũ Văn Khương (2020), Từ ngữ Công giáo trong các bản kinh nguyện của các Giáo phận Dòng tại Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Học viện Khoa học xã hội
13. Vũ Văn Khương (2021), Từ ngữ Công giáo gốc Ấn Âu có cấu tạo Hán Việt, Hội thảo Hán Nôm toàn quốc năm 2021, Viện Hán Nôm.
14. Lê Thị Lâm (2019), Đặc điểm từ ngữ nhà Phật trong tiếng Việt, Luận án tiến sĩ ngôn ngữ, Học viện KHXH, Hà Nội.
15. Đinh Kiều Nga, Ảnh hưởng của Công giáo với nền văn hóa Việt Nam, (đăng trên: http://btgcp.gov.vn)
16. Thanh Nghị (1951), Việt Nam Tân từ điển, NXB. Thời Thế, Sài Gòn
17. Chương Thâu, Vài ý kiến về Công giáo với nền văn hóa Việt Nam, Tạp chí Sông Hương, số 142, tháng 12 - 2000.
18. Nguyễn Huy Thông , Những đóng góp của đạo Công giáo đối với văn hóa Việt, đăng trên: http://www.conggiaovietnam.net
19. Nguyễn Thế Thuấn (1976), Kinh Thánh Cựu Tân Ước, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, HCM.
20. Stêphanô Huỳnh Trụ (2012), Tìm hiểu Từ vựng Công giáo, Sách lưu hành nội bộ
21. Hà Huy Tú (2002), Tìm Hiểu nền văn hóa Thiên Chúa giáo, Nxb. Văn hóa-Thông tin, Hà Nội.
[1] Thứ tự trong ngoặc đơn: tiếng Hán, La Tinh, Anh, Pháp.
(WHĐ)
TỔNG GIÁO PHẬN SAIGON: TRỰC TUYẾN CHẦU MÌNH THÁNH CHÚA VÀ LẦN CHUỖI LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT, 17.6.2022
TỔNG GIÁO PHẬN SAIGON: TRỰC TUYẾN THÁNH LỄ CHIỀU THỨ SÁU TUẦN 11 MÙA THƯỜNG NIÊN 2022.
Thứ Năm, 16 tháng 6, 2022
TỔNG GIÁO PHẬN SAIGON: TRỰC TUYẾN CHẦU MÌNH THÁNH CHÚA VÀ LẦN CHUỖI MÂN CÔI, 16.6.2022
TỔNG GIÁO PHẬN SAIGON: TRỰC TUYẾN THÁNH LỄ CHIỀU THỨ NĂM TUẦN 11 MÙA THƯỜNG NIÊN 2022
Thứ Tư, 15 tháng 6, 2022
TỔNG GIÁO PHẬN SAIGON: TRỰC TUYẾN THÁNH LỄ CHIỀU THỨ TƯ TUẦN 11 MÙA THƯỜNG NIÊN 2022
Thứ Ba, 14 tháng 6, 2022
TỔNG GIÁO PHẬN SAIGON: TRỰC TUYẾN THÁNH LỄ CHIỀU THỨ BA TUẦN 11 MÙA THƯỜNG NIÊN 2022
SỰ KỲ DIỆU CỦA ĐÔI BÀN TAY
TGPSG – Ngày Người Cha năm nay được mừng vào Chúa nhật 19-6-2022. Khi nhớ về thân phụ của mình, nữ tu Thánh Quế đã kể lại: “Lúc 7 tuổi, lần đầu tiên tôi để ý và phát hiện ra đôi tay của ba chẳng đẹp tí nào. Nó vừa đen sậm vì cháy nắng, và khi chạm vào thì đầy cảm giác khô ráp, cả những sần sùi, chai cứng…”
Nhưng vị nữ tu này đã kết luận: “Đôi tay ba má trở nên nhiệm mầu và đẹp đẽ nhất vì đó là tất cả tình yêu thương và hy sinh cả một đời mà ba má dành cho chị em chúng tôi…”
Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình hạnh phúc với tình yêu thương của ba má và các chị em.
Ba tôi từng là tu sinh của Đan viện Biển Đức, sau năm 1975, vì thời cuộc, ba không còn được tiếp tục con đường tu trì. Có lẽ đó cũng là cơ duyên để ba gặp má tôi.
Má là một thiếu nữ ngoại đạo, nhưng như lời má kể, trước khi quen ba, má đã được lôi cuốn cách kì lạ mỗi khi đi ngang nhà thờ trong xứ đạo, nhất là khi nghe ca đoàn hát thánh ca, có lúc má đứng lặng người dù chưa hiểu hết những gì mà những bài hát ấy diễn tả.
Thế rồi, ba má tôi kết hôn và dĩ nhiên má được theo đạo. Cuộc sống mưu sinh ngày càng vất vả hơn khi ba má dần dần có đến 5 mặt con, thế nhưng tinh thần đạo đức bình dân cùng đức tin đơn sơ của ba má luôn là nền tảng cho việc nuôi dạy con cái.
Những kí ức tuổi thơ còn nguyên trong tôi với những dấu ấn thật sâu đậm. Lúc ấy tôi mới độ 7 tuổi, một buổi chiều khi ba đi làm về, tôi mang một ly nước mời ba. Ba đưa bàn tay ra nhận lấy với nụ cười rạng rỡ cùng những giọt mồ hôi lăn dài trên trán. Đôi mắt tôi bỗng tròn xoe và ngạc nhiên nhìn vào bàn tay của ba. Lần đầu tiên tôi để ý và phát hiện ra đôi tay của ba chẳng đẹp tí nào. Nó vừa đen sậm vì cháy nắng, và khi chạm vào thì đầy cảm giác khô ráp, cả những sần sùi, chai cứng. Nó làm cho đứa bé như tôi có chút ngần ngại, thậm chí hơi sợ vì chẳng mềm mại, dễ nhìn chút nào. Nó cũng không giống với đôi tay mập mạp và trắng trẻo, sạch sẽ của bác Hai bán vàng ở cửa hàng đầu chợ. Hình ảnh đôi tay của ba mà tôi bắt gặp hôm ấy làm tôi không khỏi tò mò tìm hiểu.
Một lần khác, tôi lén nhìn đôi tay của má xem có đẹp hơn tay của ba không. Nhưng tôi cũng thất vọng vì dù là nữ, má không để móng tay dài hay sơn phết các màu sặc sỡ như mấy cô dì khác. Đôi tay của má dù có thon nhỏ hơn tay ba, nhưng dường như nó cũng chai sần và còn thêm những vết sẹo nho nhỏ có lẽ do dao cắt, và vài vết phỏng nữa.
Ngày nhỏ khi đi học, nếu có ai đó hỏi ba má tôi làm nghề gì, tôi thường lảng đi để khỏi trả lời. Vì lẽ, ba tôi bán cà-rem đá, còn má thì bán bánh bao ngoài bến xe. Nhiều lần tôi cũng thắc mắc, sao ba má tôi không là bác sĩ hay giáo viên hay một nghề nào khác để tôi có thể hãnh diện khoe với bạn bè.
Vâng, ba má tôi chỉ làm những công việc rất bình thường của những người nghèo. Và đó là câu trả lời cho việc những đôi tay kia trở nên sần sùi, hao mòn đi.
Hằng ngày, đôi tay của ba phải tiếp xúc với đá, với muối để ướp kem, thứ kem đá chứ không phải kem hộp như bây giờ nên đôi tay của ba bị ăn mòn và chai cứng. Trên chiếc xe thồ cộc kệch, ba đẩy thùng kem đi khắp làng xóm, ngõ ngách để bán. Chiếc áo xanh ngắn tay, bạc màu không đủ để che đôi tay ấy giữa nắng gió, vì thế mà nó cháy đen lên tận cùi chỏ.
Còn má thường phải dậy từ rất sớm để hấp bánh bao và mang ra bến xe bán cho kịp những chuyến xe khách đầu tiên. Củi lửa và hơi nóng mỗi lần mở nắp nồi bánh đã tạo nên những vết phỏng trên tay má. Thời gian ngồi chờ, má còn tranh thủ gọt thơm, rồi xiên que, cho vào bịch bán cho khách. Con dao gọt thơm sắc bén đã làm tay má đứt nhiều lằn. Chiều đến, má phải về sớm lo cơm nước và chăm sóc cho năm đứa con nheo nhóc ở nhà, thì còn thời gian đâu mà chăm sóc, sửa soạn cho đôi tay
Cứ thế, chị em tôi lớn dần tỉ lệ thuận với sự hao mòn của đôi tay ba má. Những đôi tay kì diệu ấy không chỉ làm ra cơm áo cho chúng tôi, nhưng quan trọng hơn, đôi tay đen sạm, chai sần của ba đã dẫn chị em tôi những bước đi đầu tiên trong đời. Đôi tay ấy cũng luôn giang ra để bảo vệ, chở che cả nhà, lúc nào có ba là tôi lại cảm thấy cả nhà được bình an, an toàn lạ lùng dù phải đối diện bao khó khăn, thử thách.
Còn đôi bàn tay lam lũ của má cũng là đôi tay đã cầm lấy tay tôi mà dạy tôi làm Dấu Thánh giá, dạy tôi viết những nét chữ đầu tiên trong đời, dạy tôi cách mặc quần áo, cách cầm muỗng, cách đánh răng… Đôi tay trở nên mềm mại, dịu dàng kì lạ khi vuốt tóc vỗ về tôi lúc tôi khóc, khi ôm tôi vào lòng thức cả đêm ngày tôi bị bệnh.
Cũng chính những đôi tay kì diệu ấy đã từng bước đưa chúng tôi vào đời. Nhà nghèo, nhưng chị em tôi chưa bao giờ cảm thấy phải thiếu thốn gì, chúng tôi được học hành đến nơi, và cho đến khi mỗi đứa tìm được hạnh phúc của riêng mình. Tất cả đã được đánh đổi bằng những vết tích dường như không thể xóa mòn trên đôi tay của ba má.
Năm tháng trôi qua, ba má giờ tuổi già sức yếu, chị em tôi đều đã khôn lớn. Thế nhưng “Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ, gánh nặng cuộc đời không ai khổ hơn cha”. Càng xa nhà, tôi càng trân quý vòng tay của ba má, càng lớn khi càng phải đối diện với khó khăn cuộc sống, tôi càng thấm thía những vất vả, hy sinh của ba má. Những dấu vết trên tay ba má vẫn còn đó như minh chứng hùng hồn nhất về tình yêu ba má cả đời dành trọn cho chúng tôi.
Ngày tôi bước vào đời dâng hiến, một lần nữa đôi tay ba má ôm chặt lấy tôi với tất cả nồng nàn, trìu mến. Và kể từ đó đến nay, tôi biết rằng hạnh phúc lớn lao và bến bờ bình yên nhất trên thế gian này chính là vòng tay của ba má.
Tôi đã gặp, đã thấy những đôi tay trắng trẻo, tròn trịa hơn nhưng không đôi tay nào giống và sánh được với đôi tay của ba má tôi.
Ngày hồng phúc Tiên Khấn của tôi, ba bất ngờ đeo vào tay tôi một chiếc nhẫn với lời nhắn “Của Chúa Giêsu gửi con”, còn má thì tặng tôi những bộ đồ do tự tay má cắt may. Tôi hạnh phúc đến rơi nước mắt. Vẫn là hai đôi tay cháy nắng và gầy guộc ngày nào nhưng giờ đây vượt ra khỏi tất cả những gì nó biểu lộ, tôi nhận được tình yêu, một tình yêu vĩ đại. Những vết tích trên tay ba má không còn là nỗi ám ảnh hay mặc cảm của tôi trước bạn bè. Trái lại, tôi vô cùng tự hào vì nó đã mang lấy một giá trị cao cả, vượt trên bề ngoài tầm thường của nó.
Đôi tay ba má trở nên nhiệm mầu và đẹp đẽ nhất vì đó là tất cả tình yêu thương và hy sinh cả một đời mà ba má dành cho chị em chúng tôi. Đó còn là nơi bảo bọc, chở che, là chỗ mà tôi biết rằng tôi có thể tìm về bất cứ khi nào, vì những đôi tay ấy luôn sẵn sàng mở ra cho tôi, sẵn sàng ôm lấy và tiếp thêm sức mạnh cho tôi trên đường đời.
Đôi tay ba má cũng là chỗ quy tụ cho 5 chị em, dù giờ đây mỗi đứa một hạnh phúc riêng, nhưng chúng tôi vẫn gặp nhau giữa vòng tay ba má.
Tạ ơn Thiên Chúa đã tạo ra người cha, người mẹ. Và cảm ơn đôi tay kì diệu của ba má. Giờ đây, nếu có ai hỏi về ba má, tôi sẽ không ngần ngại nói rằng, ba má tôi là một Bí tích, thông chuyển tình yêu của Thiên Chúa cho cuộc đời tôi.
Nguồn: Nhịp Sống Tin Mừng 04-2019