Chủ Nhật, 9 tháng 1, 2011

LẼ SỐNG 09.01

09 Tháng Giêng
Cánh Cửa Sổ

Trong nhiều năm qua, cứ mỗi lần mùa Giáng Sinh đến, một đài truyền hình bên Phi Luật Tân đều cho trình chiếu một phim ca vũ nhạc kịch mang tựa đề: "Tiếng âm nhạc".

Trong cuốn phim, một nữ tập sinh thủ vai chính mang tên là Maria phải chạm trán với một quyết định quan trọng có thể thay đổi cả hướng đi của cuộc đời cô: Một là tiếp tục đường tu, hai là chấp nhận đóng vai trò làm mẹ của 7 đứa bé mồ côi. Cô đã thốt lên một câu mang đầy ý nghĩa: "Khi Thiên Chúa đóng cửa chính, thì ở đâu đó trong gian nhà, Ngài luôn mở một cánh cửa sổ".

Trong cuộc sống, hàng triệu nguời mang niềm tin Kitô hình như cũng phải đương đầu với những cửa chính bị đóng kín mang nhiều hình thức của: những thử thách, đàn áp, nghi kỵ, thất bại, bệnh tật v.v… Nhưng họ luôn luôn ngẩng cao đầu lên để thưa: "Amen", một lời thưa, một câu nói biểu lộ niềm tin không bao giờ xao xuyến, lung lay bất chấp mọi nghịch cảnh.

Họ có thể so sánh với những vĩ nhân trên thế giới đã từng thực hiện được những kỳ công bất chấp những khó khăn có thể so sánh với những then cài: - Họ giống như văn sĩ John Milton hoàn thành hai tuyệt tác văn chương mang tựa đề là: "Thiên Ðàng đã mất" và "Thiên Ðàng được tìm lại", trong lúc đã sống hoàn toàn trong đêm tối dày đặc, không thấy được một tia sáng mặt trời, không ngắm được các màu sắc sặc sỡ của một cánh hoa cũng như không thể thả hồn theo mộng trước những vẻ đẹp của thiên nhiên, - Họ giống như nhạc sĩ Beethoven sáng tác những khúc đại hòa tấu xuất sắc nhất, kể cả đại khúc giao hưởng thứ 9, trong lúc ông đã không nghe được một tiếng chim hót, một tiếng suối chảy róc rách hay một tiếng khóc của trẻ thơ vì đôi tai ông bị điếc hoàn toàn.

"Khi Thiên Chúa đóng cửa chính, thì ở đâu đó trong gian nhà, Ngài luôn mở một cánh cửa sổ".

Bước vào cuộc sống hằng ngày của năm mới, chúng ta, những người mang niềm tin Kitô, phải khám phá ra những cửa sổ bé nhỏ Thiên Chúa luôn hé mở để cho chúng ta thấy:

Một tia sáng trong những vấn đề chúng ta tưởng là hoàn toàn đen tối. - Một luồng gió mát trong những hoàn cảnh chúng ta tưởng là hoàn toàn ngột ngạt khó thở. - Một tia hy vọng trong những trường hợp chúng ta tưởng là hoàn toàn tuyệt vọng.


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Bảy, 8 tháng 1, 2011

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA NĂM A

CON YÊU DẤU CỦA TA
(Mt 3, 13-17)

Khi chúng ta lãnh nhận Bí tích rửa tội, được gia nhập Giáo hội, đó là ngày trọng đại, tổ chức rầm rộ, nhà thờ được trang hoàng lộng lẫy, ca hát tưng bừng, tiệc tùng, nhộn nhịp. Ngày Chúa Giêsu chịu phép rửa khác xa với chúng ta. Đây là cuộc đăng quang khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng cứu độ của Chúa, vẻ bề ngoài là khung cảnh ảm đạm, đơn sơ và khiêm tốn xảy ra bên bờ sông Gio-đan, không huy hoàng lộng lẫy, không kèn trống, không tưng bừng nhộn nhịp. Nhưng bên trong là một biến cố vĩ đại, là một sự kiện linh thiêng. Buổi lễ khai mạc sứ vụ này được cử hành bởi tay ông Gioan Tẩy Giả với sự hiện diện của Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.

Khi ông Gioan rao giảng sự sám hối, dân chúng lũ lượt đến xin ông làm phép rửa. “Đức Giêsu từ miền Ga-li-lê đến sông Gio-đan, gặp ông Gioan để xin ông làm phép rửa cho mình”
(Mt 3, 13). Ông Gioan nhận biết Đức Giêsu là Đấng cứu thế, ông không dám nhận lời đề nghị của Người, nên ông nói: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi” (Mt 3, 14). Ông nóng lòng muốn công bố cho mọi người biết Chúa Giêsu là Đấng Messia, Đấng mà muôn dân mong đợi đã đến cứu độ trần gian. Nhưng Chúa Giêsu nói với ông Gioan rằng: “Bây giờ cứ thế đã, vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính” (Mt 13, 15).

Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu độ trần gian. Bản thân Ngài hoàn toàn vô tội, nhưng Ngài là đến gánh tội trần gian. Ngài đã tự liệt mình vào hàng tội nhân cần phải sám hối. Với tư cách Đấng Cứu Chuộc nhân loại, Ngài muốn hòa mình với loài người tội lỗi để cùng họ sám hối trước mặt Thiên Chúa. Đây quả là thái độ khiêm nhường và đầy tình yêu, một thái độ cần phải có để được tha tội. Vì vậy, Người cũng xếp hàng để lãnh nhận phép rửa thống hối như mọi người.

Ngày Chúa Giêsu chịu phép rửa đã khai mở một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của Tin Mừng cứu độ, kỷ nguyên của yêu thương và tha thứ, kỷ nguyên mà Thiên Chúa ở giữa loài người. Ngài muốn đánh dấu việc bắt đầu cuộc đời công khai của mình bằng hành động sám hối và kết thúc cuộc đời Ngài bằng việc chết trên thập giá để đền tội thay cho nhân loại. Qua sự khiêm nhường đó, Chúa Giêsu đã làm đẹp lòng Thiên Chúa Cha và làm dung động đến tận trời cao, nên Người vừa lên khỏi nước thì “Các tầng trời mở ra... Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và có tiếng từ trời phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”
(Mt 3, 16-17).

Khi Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa sám hối, đã được Chúa Thánh Thần đổi mới, bắt đầu một cuộc đời mới, cuộc đời công khai loan báo Tin Mừng Nước Trời, loan báo ơn cứu độ cho muôn dân. Người Kitô hữu khi lãnh nhận Bí tích rửa tội cũng được đổi mới nhờ Chúa Thánh Thần, được làm con Chúa, được mời gọi đem Tin Mừng tình yêu, mang ơn cứu rỗi đến cho hết thảy mọi người.

Khi lãnh nhận Bí tích rửa tội chúng ta cũng chết đi cho tội lỗi và sống một đời sống mới trong Chúa Kitô. “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang”
(Cl 3, 1-4).

Khi lãnh nhận Bí tích rửa tội, chúng ta trở thành những chi thể, được kết hợp với thân mình là Hội thánh mà Chúa Kitô là đầu. Chúng ta được mời gọi sống công chính theo gương Chúa Giêsu và Hội thánh Người, đi trên con đường Chúa đã đi. Vì đường của Đức Kitô thì dẫn đến sự sống. Đó là đường công chính, là đường tình yêu, con đường khổ giá, là con đường hẹp, con đường khiêm nhu, là con đường của sự sám hối, con đường của từ bỏ: từ bỏ những gì làm cho ta xa Chúa, từ bỏ những gì ngăn cản ta đi trên con đường của Chúa. Từ bỏ ma quỷ và những gì thuộc về chúng, từ bỏ danh vọng địa vị, từ bỏ sự hưởng thụ. Từ bỏ óc bè phái chia rẽ, tính tự cao tự đại, tự cho mình là tốt, là hay, tự cho mình là hơn người để rồi khinh bỉ, chê bai anh em. Từ bỏ những gì làm thiệt hại tới tha nhân cả tinh thần lẫn vật chất. Từ bỏ những việc làm đen tối, tội lỗi xấu xa: tham ô hối lộ, biển lận công quỹ, bóc lột người nghèo, giết người cướp của, phá nhà lấy đất, ăn chơi vô độ, chè chén say sưa, cờ gian bạc lận, gian tham tục tĩu. Loại bỏ những ý nghĩ gian tà, những lời nói nịnh hót, dèm pha, vu oan giáng hoạ, nói xấu người này, lên án người kia, nói sai sự thật. Loại bỏ cả những cái nhìn “cú vọ” soi mói.

Mỗi Kitô hữu là một chi thể trong thân thể của Chúa Kitô, chúng ta hãy nghĩ, hãy nhìn, hãy nói, hãy sống thực thi theo sự hướng dẫn của Chúa Kitô là “Đầu”, Như vậy, chúng ta trở thành những chi thể lành mạnh và hữu ích trong thân thể màu nhiệm Chúa Kitô. Để sau này chúng ta cũng được Thiên Chúa phán với ta: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về con” như đã phán với Đức Kitô xưa. Nếu không làm theo sự chỉ đạo của Chúa Kitô là “Đầu”, thì chúng ta chỉ là những chi thể bị tổn thương, những tế bào đang bị thối rữa, hay chỉ là những chi thể khuyết tật mà thôi.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa hoàn toàn vô tội, nhưng Chúa đã liệt mình vào hàng tội nhân, đến sông Gio-đan xin ông Gioan làm phép rửa để tỏ lòng sám hối như những con người tội lỗi. Xin cho chúng con hết lòng sám hối để được thứ tha tội lỗi và sống công chính như theo gương Chúa. Để chúng con cũng được Thiên Chúa Cha nói với con: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về con”.


Jos. Hồng Ân

LẼ SỐNG 08.01

8 Tháng Giêng
Sứ Giả Hòa Bình

Thánh Phanxico Assisi, vị sứ giả Hòa Bình, không những đã có một tình bác ái cao độ đối với con người, Ngài còn trải dài tinh yêu thương ấy đến cả muôn vật, cỏ cây.

Cây cỏ gợi lại cho Thánh nhân chính Cây thập giá của Chúa Giêsu, do đó, Thánh nhân cảm thấy thương tâm vô cùng mỗi khi có người hành hạ cây cỏ. Ngài nói với người làm vườn như sau: Anh hãy để lại một góc vườn nguyên vẹn. Ðừng sờ đến cây cỏ, hãy để cho chúng sinh sôi nảy nở và lớn lên, ngay cả cỏ dại và hoa dại.

Mỗi lần đi qua góc vườn ấy, Ngài bước đi nhẹ nhàng và cẩn thận để không sát hại bất cứ một loại sâu bọ, côn trùng nào. Gặp người ta mang chiên và chim rừng ra chợ bán, Ngài mua hết để rồi phóng sinh chúng.

Ngài nói với chim chóc như sau: "Hỡi những người anh em nhỏ bé của tôi, anh em phải ca ngợi Ðấng Tạo Hóa hơn ai hết, vì Ngài đã ban cho anh em bộ lông đẹp, giọng hát hay cũng như lúa thóc anh em ăn thỏa thuê mà không phải gieo vãi".

Với chú chó sói, thánh nhân nhắn nhủ: "Anh sói ơi, anh quả thật đáng chết, vì anh đã cắn xé trẻ em. Anh hãy làm hòa với loài người. Từ nay, anh hãy ăn ở hiền lành và mọi người sẽ cung cấp đầy đủ cho anh". Chú sói ấy đã cùng với thánh nhân lên tỉnh và trở thành người bạn thân của các trẻ em ở Gubbio.

Một con người có tâm hồn như thế quả thực xứng đáng được chọn làm sứ giả Hòa Bình qua mọi thời đại.

Năm 1979, Ðức Gioan Phaolô II đã công bố Thánh Phanxico là quan thầy của những người khởi xướng phong trào của những người bảo vệ môi sinh. Ngài nói trong phần mở đầu sứ điệp Hòa Bình năm 1990 như sau: "Ngày nay, con người mỗi lúc một ý thức rằng Hòa Bình của thế giới không những chỉ bị đe dọa vì cuộc chạy đua võ trang, vì các xung đột giữa các vùng và những bất công liên tục giữa các dân tộc và quốc gia, nhưng còn bởi vì thiếu tôn trọng đối với thiên nhiên nữa".

Ðức Gioan Phaolô II đã nói đến việc bảo vệ và tôn trọng môi sinh như một nghĩa vụ luân lý.

Người Kitô nhận thức được nghĩa vụ ấy, bởi vì Thiên Chúa đã tạo dựng nên muôn vật tốt đẹp và để con người hưởng dụng một cách hợp lý. Trong phần kết thúc sứ điệp, Ðức Thánh Cha đã nhắc đến Thánh Phanxico Assisi như mẫu gương của sự tôn trọng đối với thiên nhiên vạn vật. Thánh nhân đã mời gọi vạn vật dâng lời chúc tụng và thờ lạy Thiên Chúa. Trong sự bình an của Thiên Chúa, Thánh nhân kiến tạo ngay cả sự hòa hợp với thiên nhiên và sự hòa hợp ấy cũng là điều kiện tiên quyết để được hòa bình với tha nhân.

Trích sách Lẽ Sống

Thứ Sáu, 7 tháng 1, 2011

CHÚC MỪNG

Cha Chánh Xứ
Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ
Các Đoàn Thể, Các Nhóm Tông Đồ
và Toàn Thể Cộng Đoàn Dân Chúa

GIÁO XỨ THUẬN PHÁT

Hân Hoan Chúc Mừng Bổn Mạng
(Thánh Alix Leclerc, Đấng Sáng Lập)
DÒNG ĐỨC BÀ


Cầu chúc Nhà Dòng - đặc biệt là Cộng Đoàn Ái Linh, Thuận Phát - qua sự bảo trợ của Đấng Sáng Lập, ngày càng làm cho Chúa được lớn lên còn mình thì nhỏ lại.
Giáo xứ Thuận Phát
06.01.2011

LẼ SỐNG 07.01

07 Tháng Giêng
33 Năm Sau

Với tựa đề "33 năm sau", đó là một câu chuyện thuật lại như sau: "Những gì đã xảy ra cho đứa bé năm nào?". Một trong ba vua đã đi triều bái vua Do Thái mới sinh tự hỏi. Suốt cuộc đời mình, nhà vua không thể nào quên được cuộc hành trình cách đây khoảng 33 năm, một cuộc hành trình dõi theo ánh sáng sao lạ dẫn ông đến hang đá Bêlem.

Câu hỏi: "Liệu đứa bé ấy có trị vì dân Israel được không?". Làm cho nhà vua bồn chồn đứng ngồi không yên. Rồi chẳng dừng được, một lần nữa nhà Vua quyết định lên đường đi đến Palestine. Tại Giêrusalem, những bậc bô lão còn nhớ đến những vì sao lạ, nhưng không ai biết gì đến đứa bé được sinh ra dưới điềm lạ ấy. Còn tại Bêlem mọi người được hỏi đều lắc đầu, ngoại trừ một cụ già cho nhà Vua biết: Làm gì có ông Giêsu Bêlem, chỉ có ông Giêsu Nagiarét, một người nói phạm thượng tự xưng mình là Con Thiên Chúa, nên cách đây mấy tuần đã bị xử "tử hình thập giá".

Thất vọng ê chề, nhà Vua thẫn thờ nhập vào đoàn những người hành hương trở lại Giêrusalem, vào đúng ngày Lễ Ngũ Tuần. Chen lấn vào đoàn lũ đang mừng lễ Tạ Ơn Sau Mùa Gặt, nhà Vua chú ý đến một đám đông đang bu quanh một nhóm người. Tò mò ông lấn qua đám đông để đến gần và nghe có kẻ nói: "Tưởng gì chứ lại gặp mấy tên say rượu nói tầm xàm".

Nhưng tai nhà Vua lại nghe một người trong nhóm nói tiếng nước mình và rõ ràng ông ta nói về ông Giêsu Nagiarét, người đã bị đóng đinh, nhưng đã được Thiên Chúa cho sống lại từ cõi chết. Như bị một sức mạnh vô hình thúc đẩy, nhà Vua chen vào đám đông cất tiếng hỏi: "Vậy bây giờ ông Giêsu đó ở đâu?". Ðại diện nhóm người đứng ở giữa đám đông là Simon Phêrô trả lời: "Ngài đang ở giữa chúng tôi. Ngài đang ở trong chúng tôi. Chúng tôi là môi miệng, là tai mắt, là đôi tay, là đôi chân của Ngài".

Trong lúc Phêrô đang nói, bỗng có một luồng gió thổi mạnh và hình lưỡi lửa một lần nữa thổi tràn xuống mọi người. Nhà Vua bỗng lại thấy ánh sao Bêlem, nhưng lần này ánh sao ấy chia ra nhiều ánh sao khác rơi xuống mọi người. Trong tâm hồn, nhà Vua chợt hiểu: Mỗi người phải trở nên máng cỏ nơi Ðức Giêsu sinh ra và mỗi người phải mang Ngài đến cho mọi người xung quanh.

Câu chuyện trên nối liền ý nghĩa của Lễ Giáng Sinh, mừng biến cố Ngôi Lời nhập thể với Lễ Tưởng Niệm Biến Cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Ðồng thời câu chuyện cũng nêu nổi bật bổn phận của mọi người Kitô, là những kẻ phải trở nên tai mắt, trở nên môi miệng và chân tay của Ðức Kitô để mang Tin Mừng của Ngài đến cho mọi người chúng ta gặp gỡ và cộng tác hằng ngày.


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Năm, 6 tháng 1, 2011

R.I.P

XIN CẦU CHO LINH HỒN
LÊÔ


Trong niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh,
Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ, Ban Điều Hành Giáo Khu 6
Giáo xứ Thuận Phát và gia đình trân trọng báo tin :


Ông LÊÔ
TRƯƠNG HUỲNH NGA
Sinh năm 1940 tại Bình Dương

Cư ngụ tại : 73 đường 43
P.Tân Quy, Quận 7, Tp.HCM
Thuộc Giáo Khu 6 – Giáo xứ Thuận Phát

Đã an nghỉ trong Chúa
lúc 14g00 ngày Thứ Tư 05.01.2011
(Nhằm ngày 02 tháng Chạp năm Canh Dần)

Hưởng thọ 71 tuổi


CHƯƠNG TRÌNH TANG LỄ

Thứ Tư 05.01. 2011

  • 22g00 : Nghi Thức Phát Tang - Tẩn Liệm - Nhập Quan.
Thứ Năm 06.01. 2011
  • 18g30 : Thánh Lễ An Táng cử hành tại tư gia.
Thứ Sáu 07.01. 2011
  • 04g15 : Nghi Thức Động Quan và di quan đến nhà thờ
  • 05g00 : Thánh Lễ An Táng cử hành tại nhà thờ Thuận Phát
Sau đó di quan đi an táng
tại thị trấn Cái Bè, Tiền Giang.


Thuận Phát, ngày 05 tháng 01 năm 2011
Kính báo
Hội Đồng Mục Vụ
Ban Điều Hành GK 6
Gx.THUẬN PHÁT
và Gia Đình

LẼ SỐNG 06.01

06 Tháng Giêng
Vị Vua Thứ Tư

Hôm nay lễ Ba Vua. Tin Mừng chỉ nhắc đến ba vị vua. Thế nhưng văn sĩ Joergernen người Ðan Mạch thì lại tưởng tượng ra một vị vua thứ tư. Vị vua thứ tư này đến chầu Chúa Giêsu sau ba vị vua khác. Triều bái Hài Nhi Giêsu nhưng mặt ông tiu nghỉu bởi vì ông không còn gì để dâng tặng Ngài.

Trước khi lên đường, ông chọn ba viên ngọc quý nhất trong kho tàng của ông, thế nhưng dọc đường gặp bất cứ ai xin, ông cũng mang ra tặng hết. Người thứ nhất mà ông đã gặp là một cụ già rét run vì lạnh. Ðộng lòng trắc ẩn, ông đã tặng cho cụ viên ngọc thứ nhất. Ði thêm một đoạn đường nữa, ông gặp một toán lính đang làm nhục một cô gái. Ông đành mang viên ngọc thứ hai ra thương lượng với chúng để chuộc lại cô gái. Cuối cùng khi tiến vào địa hạt Bêlem, ông gặp một người lính do vua Herôđê sai đi để tàn sát các hài nhi trong một ngôi làng lân cận. Vị vua thứ tư đành phải rút ra viên ngọc cuối cùng để tặng cho người lính và thuyết phục anh từ bỏ ý định gian ác.

Tìm được Hài Nhi Giêsu, vị vua thứ tư chỉ còn hai bàn tay trắng. Ông bối rối kể lại cuộc hành trình của mình.

Nghe xong câu chuyện, Hài Nhi Giêsu mỉm cười đưa bàn tay bé nhỏ ra đón nhận quà tặng của ông. Nó không phải là vàng bạc châu báu, nhưng là tấm lòng vàng được dệt bằng những nghĩa cử đối với tha nhân, nhất là những người túng thiếu, đói khổ, những người cần giúp đỡ.

Mùa Giáng Sinh là mùa của những bất ngờ. Bất ngờ của một Thiên Chúa hóa thân làm người. Bất ngờ của một Thiên Chúa giáng hạ trong hang súc vật. Bất ngờ sự việc những người nghèo hèn nhất trong xã hội đã nhận ra Tin Mừng. Bất ngờ của những người dân ngoại tìm đến triều bái Vua các vua. Nhưng điều khiến con người sẽ không bao giờ ngờ đến: đó là Ðấng Thiên Chúa hóa thân làm người ấy lại tự đồng hóa với mỗi một con người sinh ra trên cõi đời này, nhất là những con người bé mọn nhất trong xã hội. Ngài đã nói: tất cả những gì các người làm cho một trong những kẻ bé mọn nhất là các người làm cho chính Ta. Từ đây, người ta chỉ có thể gặp gỡ được Ngài qua tha nhân. Tất cả những gì người ta làm cho tha nhân là làm cho chính Ngài. Lễ dâng làm đẹp lòng Ngài nhất chính là những gì người ta trao tặng cho tha nhân, nhất là những người nghèo hèn túng thiếu hay bất cứ ai cần sự giúp đỡ.


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Tư, 5 tháng 1, 2011

LẼ SỐNG 05.01

05 Tháng Giêng
Chiếc Áo Rách

Một linh sư Anh giáo nọ rất hài lòng về sự tiến bộ của người đệ tử. Nhận thấy rằng người đệ tử không cần đến sự dìu dắt của ông nữa, cho nên ông mới bỏ mặc anh trong túp lều tranh rách nát bên cạnh một bờ sông. Một buổi sáng, khi thức dậy, người đệ tử xuống dòng sông thanh tẩy theo đúng nghi thức, rồi giặt chiếc áo rách rưới của mình. Ðây là tài sản duy nhất của anh ta.

Ngày nọ, anh đau đớn vô cùng khi nhận ra chiếc áo phơi ở bờ sông đã bị chuột cắn tả tơi. Không còn cách nào nữa, người đệ tử đành phải vào làng gõ cửa để xin một chiếc áo khác. Cái áo lần nữa cũng bị chuột gặm nát. Anh mới xin được một con mèo. Lần này anh khỏi phải lo lắng về mấy con chuột nữa. Nhưng không xin áo mặc, thì người đệ tử cũng phải xin cơm, bánh mà thôi.

Ngày ngày phải vác bị đi khất thực, người đệ tử cảm thấy mình như một thứ gánh nặng đối với dân làng. Nghĩ thế, cho nên anh mới tìm cách tậu cho bằng được một con bò để lấy vốn làm ăn. Nhưng có bò thì cũng phải có cỏ cho bò ăn. Những ngày đầu, anh còn tự mình cắt cỏ cho bò ăn. Về lâu về dài, nhận thấy không còn thì giờ cho sự cầu nguyện nữa, cho nên anh đành phải thuê người cắt cỏ cho bò. Bò càng ngày càng sinh sản ra nhiều, người cắt cỏ cũng phải gia tăng. Không mấy chốc, mảnh đất xung quanh túp lều của anh đã biến thành một nông trại. Con người đã một thời muốn bỏ đi tất cả mọi sự để trở thành một tu sĩ nay nghiễm nhiên trở thành một chủ nông trại giàu có. Có tiền, có mọi sự, cho nên anh cũng muốn có người chia sẻ công việc của anh. Anh đành phải cưới vợ. Và không mấy chốc, anh đã trở thành một trong những chủ nông trại giàu có nhất trong làng.

Vài năm sau, khi có dịp trở lại thăm ngôi làng cũ, vị linh sư đã một thời dẫn dắt anh, ngạc nhiên vô cùng vì thay cho túp lều nghèo nàn bên bờ sông, nay là cả một cơ nghiệp đồ sộ. Dò hỏi được tung tích của người chủ nông trại, vị linh sư mới lên tiếng hỏi người đệ tử của mình: "Thế này nghĩa là gì hả con?". Người đệ tử mới trả lời: "Có lẽ thầy không tin. Nhưng tất cả cơ nghiệp này hiện hữu là cũng chỉ vì con đã không làm cách nào để giữ được chiếc áo rách".

Vì chén cơm manh áo, người ta có thể đánh mất lý tưởng của mình. Vì chén cơm manh áo, người ta có thể chà đạp phẩm giá của mình cũng như của người khác. Vì chén cơm manh áo, người ta có thể chối bỏ niềm tin của mình. Ðó là mối hiểm nguy mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào.

Ðầu một Năm Mới, tiến thêm một bước trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta hãy xin Chúa ban thêm sáng suốt để thấy được bậc thang giá trị trong cuộc sống của chúng ta. Xin Ngài ban thêm can đảm để trong khi mưu cầu của cải vật chất, chúng ta có đủ sức khước từ mọi hành động bất chánh, mọi thỏa hiệp với lừa đảo, gian trá. Xin Ngài ban thêm lòng quảng đại để chúng ta biết mở rộng quả tim và đôi bàn tay để chia sớt, để san sẻ với mọi người khốn khổ.


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Ba, 4 tháng 1, 2011

LẼ SỐNG 04.01

04 Tháng Giêng
"Trăm năm bia đá thì mòn,
Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ"

Nhà độc tài nào sau khi ra đi cũng trở thành bia cho không biết bao nhiêu những lời đàm tiếu của thiên hạ. Năm 1986, người ta nói đến trên 3,000 đôi giày đã trở thành bảo tàng viện của bà Imelda Marcos, phu nhân của cựu tổng thống Phi Luật Tân, ông Ferdinand Marcos. Sau đó, người ta lại bàn tán về những đôi giày của bà Elena, vợ của nhà độc tài Ceaucescu bị hành quyết tại Rumani.

Khi vợ chồng của cựu tổng thống Marcos bị bắt buộc phải bỏ nước Phi, dân chúng đã tuôn đến dinh tổng thống như một ngày hội: họ đến đó chỉ để xót xa so sánh cái cảnh giàu sang quá mức của gia đình nhà độc tài với cái đói khổ mạt rệp của dân chúng. Người dân Phi nói rằng, trong 9 năm liền, bà Imelda Marcos chỉ có thể mang một đôi giày không quá 3 lần là cùng. Sau khi hành quyết vợ chồng Ceaucescu, người ta mới khám phá ra rằng căn nhà mà họ cho là bình thường của họ chính là một biệt thự sang trọng với 40 phòng khác nhau được trang trí bằng những bức tranh đắt giá, phòng tắm được khảm bằng vàng. Mỗi phòng đều có truyền hình và máy video.

Tài sản của ông Ceaucescu cũng không thua kém gì những của cải biển lận của ông Noriega, cựu tổng thống bị truất phế của Panama. Ông tướng này không chỉ có những căn nhà lộng lẫy trong nước, mà còn không biết bao nhiêu biệt thự tại Pháp và các nước khác. Máy bay và những chuyến du thuyền của ông không còn là những phương tiện để di chuyển, mà là cả một thú sưu tầm.

Không có một nhà độc tài nào mà không tham lam tiền của. Người ta nói đến hàng tỷ Ðôla của ông Marcos. Nhà độc tài của một nước nghèo nàn như Haiti cũng có đến 400 triệu Mỹ kim. Somoza, người bị lật đổ tại Nicaragua, thì có đến hàng trăm triệu Ðô la đầu tư vào những kinh doanh đồi trụy như đĩ điếm, cờ bạc. Cựu hoàng đế Pokassa của một nước nghèo nàn lạc hậu như Cộng Hòa Trung Phi bên Phi Châu, đã làm lễ đăng quang năm 1976 với một phí tổn là 20 triệu Mỹ kim. Và hiện nay, người ta ước tính tài sản của tổng thống Zaire là ông Mobutu Sese Seko lên đến gần 5 tỷ Mỹ kim.

Giá của những tài sản bất chính ấy thường giống nhau: một cuộc lưu vong nhục nhã, một cuộc trốn chạy không kèn không trống, một cuộc hành quyết dã man hay một cuộc sống trong lo sợ từng ngày và làm mục tiêu cho những oán ghét.

Mỗi dịp đầu năm, dường như ai cũng muốn làm một quyết tâm. 50% người Hoa Kỳ quyết tâm giảm thiểu sự ăn uống để gìn giữ sức khỏe.

Ðối với người Kitô chúng ta, sức khỏe tinh thần, sự cường tráng tâm linh có lẽ là điều quan trọng hơn cả. Quyết tâm của chúng ta phải là quyết tâm điều chỉnh lại sự lựa chọn cơ bản của chúng ta. Ðâu là cùng đích của cuộc sống chúng ta? Ðâu là lý tưởng của chúng ta? Ðâu là giá trị cao cả nhất trong cuộc sống của chúng ta? Tiền bạc và nhất là tiền bạc bất chính có đem lại hạnh phúc cho đời Người không?


Trích sách Lẽ Sống

Thứ Hai, 3 tháng 1, 2011

LẼ SỐNG 03.01

03 Tháng Giêng
Bí Quyết Hạnh Phúc

Trong một chương trình truyền hình Mỹ, người ta phỏng vấn một cụ già, tuổi hạc rất cao. Người ta đặt câu hỏi như sau: "Thưa cụ, chắc cụ có một bí quyết đặc biệt để được hạnh phúc?"


Cụ già trả lời một cách đơn sơ như sau: "Không, tôi chẳng có bí quyết nào gọi là đặc biệt cả. Trái lại, nó rất đơn giản như chiếc mũi trên mặt ông vậy!". Cụ già giải thích như sau: "Mỗi buổi sáng mai, lúc thức dậy, tôi có hai điều chọn lựa, một là sống hạnh phúc, hai là sống bất hạnh. Ông nghĩ xem, tôi sẽ chọn điều nào? Dĩ nhiên tôi phải chọn được hạnh phúc".

Câu trả lời trên đây của cụ già thật đơn giản. Abraham Lincol đã nói như sau: "Con người sở dĩ có được hạnh phúc, sung sướng hay không cũng tại lòng tưởng nghĩ như vậy". Bạn có thể hạnh phúc, nếu bạn muốn như thế. Ðó là điều dễ thực hiện nhất trên đời. Bạn hãy chọn lựa sự bất hạnh. Ði đến đâu bạn cũng than thân trách phận, chắc chắn bạn sẽ được như ý. Nhưng nếu lúc nào bạn cũng tự nhủ rằng: "Mọi việc đều tốt đẹp, đời vẫn đẹp và đáng sống. Tôi chọn sống hạnh phúc", thì chắc chắn bạn sẽ được điều bạn muốn.

Trẻ con rành về nghệ thuật sống hạnh phúc hơn người lớn. Trẻ em mang vào giấc ngủ của mình vô số những mộng mơ và chúng cũng thức giấc với vô số những mộng ước, trong đó cơ bản nhất vẫn là được vui chơi.

Người lớn mà có được một tinh thần như trẻ thơ lúc tráng niên và vào tuổi già, thì quả là một thiên tài, vì họ nắm được niềm hạnh phúc thật trong tâm hồn mà Chúa đã dành để cho tuổi thanh xuân. Chúa Giêsu quả là tế nhị khi Ngài nói với chúng ta rằng cần phải có tinh thần trẻ thơ thì mới vào được Nước Trời. Nước Trời là gì nếu không phải là được sống hoan lạc trong tình yêu thương của Chúa?


Trích sách Lẽ Sống

Chủ Nhật, 2 tháng 1, 2011

LẼ SỐNG 02.01

02 Tháng Giêng
Ðóng Thuế Cho Năm Mới

"Ðóng Thuế Cho Năm Mới : 15 người thiệt mạng, khoảng 1,500 người bị thương, gần 2,500 lâm cảnh màn trời chiếu đất". Trên đây là hàng tít lớn của hầu hết các nhật báo xuất bản tại thủ đô Manila Phi Luật Tân, trong số ra ngày mùng 02 tháng Giêng mỗi năm, tức là số báo đầu tiên trong năm. Dường như đây là công thức quen thuộc mà bất cứ nhật báo nào cũng đưa ra số báo đầu năm. Ðó cũng là điều mà dân chúng chờ đợi sau một đêm đón giao thừa trong tiếng nổ liên tục của pháo và trong khói bay mịt mù.

15 người xấu số trên đây đều là nạn nhân của những vụ đâm chém, bắn giết vì say sưa quá chén trong đêm giao thừa. 1,500 người bị thương khác là nạn nhân của bất cẩn trong khi đốt pháo.

Chỉ riêng ở thủ đô Manila thôi, chưa tính số tiền được đốt đi trong tiếng pháo, số thiệt hại vì hỏa hoạn và những thiệt hại khác lên đến cả triệu Mỹ kim.

Hôm nay thì mọi người đều trở lại với sinh hoạt bình thường của mình. Ðọc bản tin về những gì đã xảy ra trong Ðêm Giao Thừa và Ðầu Năm, ai cũng bàng hoàng xót xa cho những người xấu số và có lẽ ai cũng thở ra nhẹ nhõm vì bất trắc đã không xảy đến cho mình. Người ta nghĩ rằng may mắn vẫn còn đó. Bảng tổng kết Ðầu Năm và lời kêu gọi đề phòng cho Năm Mới không mấy chốc cũng sẽ đi vào quên lãng. Bánh xe lịch sử cứ lăn và con người cũng sẽ tiếp tục lập lại những lỗi lầm của quá khứ.

Người Á Ðông chúng ta thường nói: "cha ăn mặn thì con khát nước". Kinh Thánh Cựu Ước cũng viết: "cha ông ăn nho xanh thì con cháu phải ê răng". Người tin ở thuyết quả báo thì cho rằng con cái phải gánh chịu những hậu quả do lầm lỗi của ông bà để lại.

Trong một cái nhìn khách quan và sâu xa hơn, chúng ta phải nói rằng lịch sử thường lặp lại. Lịch sử thường lặp lại, bởi vì nó được cấu tạo bởi những biến cố do con người chủ động. Mà bởi vì mẫu số chung của con người ở mọi thời đại vẫn là tự do, cho nên những lầm lẫn giống nhau được lập lại là chuyện bình thường, có khác chăng là khác ở mức độ và hình thức mà thôi. Ở thời đại nào mà không có chiến tranh, ở thời đại nào mà không có cảnh người bóc lột người, ở thời đại nào mà không có tham, sân, si?

Người Kitô chúng ta hãy nhìn vào bản thân và lịch sử của nhân loại với một cái nhìn thực tế và lạc quan. Thực tế để thấy rằng sống là một cuộc chiến đấu không ngừng: chiến đấu giữa thiện và ác, chiến đấu giữa tự do và nô lệ, chiến đấu giữa ân sủng và tội lỗi. Thực tế để thấy rằng cuộc chiến ấy đang diễn ra trong từng phút giây của cuộc sống. Nhưng chúng ta cũng hãy có cái nhìn lạc quan, lạc quan và tin rằng, lầm lỗi thất bại là khởi đầu của những ân ban dồi dào hơn, và trong cuộc chiến từng ngày đó: Thiên Chúa vẫn luôn có mặt để nâng đỡ chúng ta.

Trích sách Lẽ Sống

AUDIO THÁNH LỄ CN CHÚA HIỂN LINH NĂM A

* Audio Thánh Lễ Chúa Nhật Chúa Hiển Linh năm A.
Cha Chánh Xứ dâng Lễ.
Ca đoàn Cécilia hát Lễ.
Sau Thánh Lễ Chầu Mình Thánh Chúa ( Chúa Nhật đầu tháng )

Mời bấm VÀO ĐÂY để nghe.


Hữu Toàn.

Thứ Bảy, 1 tháng 1, 2011

RƯỚC KIỆU ĐỨC MẸ LA VANG - BẾ MẠC NĂM THÁNH 2010







* Giáo xứ Thuận Phát - 17g20 ngày 01-01-2011.

Trong niềm vui Mừng Năm Mới 2010 và tâm tình hướng về Trung Tâm Thánh Mẫu La Vang, hiệp thông với những cử hành Bế Mạc Năm Thánh Giáo Hội Việt Nam 2010, Giáo Xứ Thuận Phát đã tổ chức Rước Kiệu Đức Mẹ La Vang chung quanh khuôn viên nhà thờ. Rất đông giáo dân tham dự cuộc Rước.

Trước khi bắt đầu cuộc Rước, Cha Chánh Xứ cử hành nghi thức làm phép Tượng Đức Mẹ La Vang. Cuộc Rước thật long trọng, nghiêm trang với sự có mặt đầy đủ các hội đoàn trong giáo xứ, và cùng với ca đoàn Các Bà Mẹ Công Giáo cất cao tiếng hát Tôn Kính Mẹ La Vang, với tâm tình Tạ Ơn Tình Yêu Thương đặc biệt của Mẹ, đã đoái thương cứu giúp các con của Mẹ tại Việt Nam trong thời kỳ bị bách hại năm xưa.

Đoàn Rước tiến vào nhà thờ, sau khi Cha Chánh Xứ xông hương Thánh Tượng, Thánh Lễ được cử hành. Vì là ngày Thứ Bảy đầu tháng nên cuối Lễ, cộng đoàn cùng Cha Chánh Xứ Chầu Phép Lành Mình Thánh Chúa.


Mời xem thêm HÌNH CUỘC RƯỚC ĐỨC MẸ LA VANG 01-01-2011

Hữu Toàn.

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT LỄ HIỂN LINH (Mt 2, 1-12)

NGÔI SAO SÁNG (Mt 2, 1-12)

Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, mặc khải cho họ biết: Hài Nhi Giêsu chính là Con Thiên Chúa, là Vua vũ trụ, là Ngôi Sao hy vọng, là Mặt Trời công chính, là Ánh Sáng đến trong thế gian, xua tan đi bóng đêm tội lỗi và sự chết, dẫn đưa muôn dân nước bước đi trong ánh sáng, để tìm về với nguồn mạch bình an và hạnh phúc, tìm về với cội nguồn Chân-Thiện-Mỹ.

Đức Giêsu Kitô chính là Ngôi Sao sáng chiếu soi cho muôn dân, muôn nước. Ba nhà chiêm tinh hân hoan vui mừng khi nhìn thấy ngôi sao xuất hiện: “Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng”
(Mt 2, 10). Ngôi sao sáng đã dẫn đường cho ba nhà đạo sĩ từ Phương Đông đến gặp Chúa nơi hang đá Bêlem. Theo ánh sao dẫn đường họ đã gặp được Hài Nhi Giêsu, Vua Cả Trời Đất. Họ quỳ gối thờ lạy Người, dâng lên Người vàng, mộc dược và nhũ hương là những lễ vật quý giá nhất. Chúa Giêsu tỏ mình ra cho dân ngoại mà ba nhà hiền sĩ là những người đại diện đến tôn thờ Chúa.

Chúa Giêsu là Ngôi Sao sáng ngời đã chiếu rọi vào cuộc đời tăm tối của chúng ta, Người cũng muốn mỗi chúng ta phải trở thành những ánh sao sáng, soi chiếu cho mọi người để họ tìm gặp Chúa và dẫn đưa họ về với Chúa, như lời Chúa phán: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian… Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”
(Mt 5, 14-16). Người Kitô hữu được mời gọi trở nên sự hiển linh của Chúa trong môi trường sống. Mỗi việc tốt ta làm, mỗi lời hay ý đẹp ta nói, mỗi cử chỉ yêu thương ta dành cho tha nhân, mỗi ánh mắt trìu mến, mỗi nụ cười trao tặng cho nhau, mỗi cái bắt tay thân thiện, đó chính là ánh sao ngời sáng chiếu soi những người chung quanh, làm cho họ nhận ra Chúa, dẫn đưa họ về với Chúa.

Một cuộc tĩnh tâm vào buổi tối nọ, trong nhà thờ có hàng trăm người tham dự, linh mục giảng thuyết làm hiệu cho người giúp việc tắt hết đèn trong nhà thờ, bóng tối liền bao trùm không gian. Linh mục giảng thuyết lên tiếng. Tôi sẽ đốt lên một que diêm. Tất cả những ai thấy ánh sáng của que diêm, xin hô to “thấy”. Nhà thờ rộng lớn, chỉ có ánh sáng của một que diêm, nhưng ai cũng thấy và đồng thanh hô to “tôi thấy”, “tôi thấy”… Linh mục giảng thuyết liền giải thích “như vậy, một hành động tốt của anh chị em, dù nhỏ đến mấy cũng chiếu sáng cho mọi người, làm ngọn đèn soi sáng, dẫn đưa những ai đang lần mò trong đêm tối tội lỗi và sự chết, nhìn thấy và bước đi trong ánh sáng của sự sống, của niềm tin và chân lý.

Sau đó linh mục phát cho mỗi người một que diêm và bảo: “mỗi người hãy đốt que diêm của mình lên”. Mọi người ai nấy đốt que diêm của mình, trong chốc lát, bóng tối trong nhà thờ phải nhường chỗ cho ánh sáng, khiến cả nhà thờ trở nên lung linh, nhờ ánh sáng của những que diêm bé nhỏ.

Linh mục kết luận: “Nếu mỗi người chúng ta biết góp lại những việc tốt nho nhỏ, chúng ta có thể trở nên Ánh Sao sáng xua tan đi bóng tối lầm lạc, bóng đêm tội lỗi và dẫn đưa mọi người đến với Chúa, như ngôi sao sáng đã dẫn ba nhà hiền sĩ đến Bêlem để thờ lạy Chúa Hài Đồng.

Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian, như lời Người phán: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống”
(Ga 8, 12). Chúa đến để soi sáng cho thế gian, những ai đón nhận và bước đi trong ánh sáng thì được sống muôn đời. Nhưng thực tế còn biết bao người chưa nhận biết Chúa, chưa nhận ra ánh sáng của Chúa, vẫn lần mò trong bóng đêm tội lỗi. Còn biết bao người chưa nhận ra Ngôi Sao dẫn đường để tìm gặp Chúa. Tiếc thay, nhiều người đã không tiếp nhận ánh sáng, như Thánh Gioan đã nói: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa” (Ga 3, 19). Tệ hơn nữa, có kẻ ghét Người, tìm cách giết Người như bạo chúa Hêrôđê xưa. Vì họ yêu chuộng bóng tối hơn ánh sáng.

Ước gì chúng ta biết đón nhận và bước đi theo ánh sao của Hài Nhi Giêsu soi chiếu, để tìm đến và thờ lạy Người, dâng lên Người những lễ vật quý giá là những việc lành phúc đức của ta: những manh áo ta giúp cho anh em là giúp Chúa đỡ rét trong mùa đông giá lạnh; những đồng tiền, bát gạo ta giúp cho anh em là giúp cho Chúa đỡ đói, những lời an ủi động viên, khích lệ khi anh em gặp gian nan thử thách là an ủi Chúa khi Ngài chịu cực hình... Chúng ta được ánh sáng hiển linh soi dẫn, ta cũng phải biết đem ánh sáng hiển linh của Chúa đến với anh em, nhất là những người chưa nhận biết Chúa, những người nghèo khổ đói rách, những người cô đơn tàn tật, những người đang phải lầm lạc trong bóng tối tội lỗi, những người đang phải sống trong bạo lực, hận thù, chia rẽ, những người đang phải gánh chịu nạn kỳ thị chủng tộc, giai cấp và tôn giáo cùng các tệ nạn khác của xã hội…

Lạy Chúa Giêsu, là Ngôi Sao chiếu soi cuộc đời dương thế. Xin Chúa là Ngôi Sao sáng dẫn đưa chúng con đến thờ lạy Người, như đã dẫn đưa ba nhà hiền sĩ đến thờ lạy Hài Nhi Giêsu nơi hang Bêlem xưa. Xin cho chúng con cũng trở thành những Ngôi Sao sáng để dẫn đường cho mọi người tìm gặp Chúa. Amen.

Jos. Hồng Ân
(nguồn : thanhlinh.net)

LẼ SỐNG 01.01

01 Tháng Giêng
Chiếc Mốc Thời Gian

Cứ ở mỗi cuối năm, hoặc ở khởi đầu của một năm mới, một thập niên mới, một kỷ nguyên mới, tạp chí Time có thói quen chọn một người nổi bật nhất trong lịch sử nhân loại để làm một cái mốc cho thời gian.

Lần đầu tiên, năm 1927, phi công Hoa Kỳ tên là Charles Lindbergh đã được chọn làm người của năm. Viên phi công này là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã thực hiện một chuyến bay liên tục từ New York sang Paris. Người của năm không phải chỉ là một đấng mày râu, mà ngay cả phái yếu cũng được chọn vào danh dự ấy. Trước kia, có nữ hoàng Elizabeth đệ nhị, và năm 1986, tổng thống Aquino của Phi Luật Tân cũng đã được chọn làm người của năm.

Có đàn ông, có đàn bà. Có những người xây dựng Hòa bình như Mahatma Gandhi, như Martin Luther King, mà cũng có những người chỉ biết gây đau thương tang tóc cho nhân loại như Stalin, như Hitler, như Ðặng Tiểu Bình cũng đã từng được chọn làm người của năm.

Gần đây, thế giới nhìn vào chủ tịch Gorbachov như gương mặt nổi bật nhất của lịch sử nhân loại. Năm 1987, ông được chọn làm người của năm vì đã xuất hiện như một biểu tượng của Hy vọng cho Liên Xô. Và với những thay đổi sâu rộng trong khối Ðông Âu do chính sách đổi mới của ông mang lại, ông được chọn làm người của năm 1989. Nhưng tạp chí Time còn đi xa hơn nữa khi tặng cho ông danh hiệu "Người của thập niên 80". Trước kia, năm 1949, thủ tướng nước Anh là Winston Churchill cũng đã được chọn làm người của nửa thế kỷ.

Thời gian sẽ vô nghĩa và trống rỗng, nếu không được liên tục bằng những cái mốc của lịch sử. Con người cần có những cái mốc ấy để nhìn lại quá khứ và dự phóng cho tương lai.

Người Kitô sống giữa thế giới không thể không dựa vào những chiếc mốc thời gian ấy. Nhưng chúng ta không nhìn vào những chiếc mốc thời gian ấy với đôi mắt bàng quan, hoặc tệ hơn nữa, bằng cái nhìn bi quan. Trong đức tin, tất cả được nhìn bằng đôi mắt lạc quan, bởi vì chúng ta tin rằng Thiên Chúa là chủ của lịch sử, Thiên Chúa luôn có mặt trong lịch sử con người. Tin vào sự hiện diện và hướng dẫn ấy của Thiên Chúa, chúng ta nhìn vào những chiếc mốc của thời gian như những dấu hiệu của Hy vọng. Ngay cả trong thất bại, rủi ro, tang tóc, thương đau, người Kitô cũng luôn nhận ra những dấu chỉ của Hy vọng. Tất cả mọi biến cố xảy đến đều phải được nhìn trong ánh sáng phục sinh của Ðức Kitô. Cái chết đau thương và nhục nhã của Ngài trên thập giá không phải là ngõ cụt, là đường cùng, là tăm tối mà là đường dẫn về Ánh Sáng.

Tin tưởng ở sự hiện diện của Thiên Chúa trong từng phút giây của cuộc sống và lịch sử con người, cái mốc thời gian của chúng ta có lẽ không phải là đơn vị của năm, thập niên, mà là từng phút giây của Hiện tại. Và người được chúng ta chọn cho từng phút giây ấy phải là Thiên Chúa, chủ của thời gian, chủ của lịch sử.

Xin chọn Người làm trung tâm điểm của cuộc sống, xin chọn Người làm Sự Sống, xin chọn Người làm Lý Tưởng, xin chọn Người làm Cảm Hứng, xin chọn Người làm cho tất cả cho cuộc đời, xin chọn Người trong từng phút giây của cuộc sống.


Trích sách Lẽ Sống